Thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt trên bình diện cấu tạo và định danh.pdf

Thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt trên bình diện cấu tạo và định danh.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.47 KB, 183 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ HÀ

THUẬT NGỮ QUÂN SỰ TRONG TIẾNG VIỆT
TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TẠO VÀ ĐỊNH DANH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ

Hà Nội, 2018
MỤC LỤC

1

DANH MỤC CÁC BẢNG

2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong thời đại khoa học công nghệ 4.0, việc giao lưu về các vấn đề
kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa đang diễn ra nhanh chóng từng ngày,
từng giờ và một trong những công cụ quan trọng góp phần chuyển tải thông
tin về các lĩnh vực ấy là ngôn ngữ, trong đó có hệ thuật ngữ. Bởi thuật ngữ
gắn với quá trình tư duy trừu tượng của con người, đánh dấu sự phát triển của
văn minh nhân loại. Một đất nước sẽ không thể phát triển được nếu không cập
nhật những thuật ngữ khoa học thế giới. Chính vì vậy, nghiên cứu thuật ngữ
nói chung có ý nghĩa thiết thực cho công cuộc phát triển ngôn ngữ nói riêng

và các mặt của đời sống xã hội nói chung.
1.2. Hiện nay, Việt Nam vẫn đang phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tình hình thế giới đang tạo ra nhiều cơ hội cũng như
nhiều thách thức với sự phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta vừa phải thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế vừa phải đối mặt với âm mưu“Diễn biến hòa bình” và
Bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch trên thế giới. Vì vậy, nghiên cứu thuật ngữ
quân sự nhằm góp phần chỉnh lí, sử dụng chúng một cách khoa học trong thực
tiễn quân sự, nhất là trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo ở cấp trung đoàn, sư đoàn là
việc làm mang lại ý nghĩa thiết thực.
1.3. Trong hàng loạt vấn đề đặt ra khi nghiên cứu thuật ngữ quân sự,
chúng tôi nhận thấy việc cập nhật những thành tựu khoa học trong thực tiễn
quân sự vào nội hàm khái niệm thuật ngữ và cách sử dụng thuật ngữ theo
những hình thức ngôn ngữ và ngữ nghĩa nhất định đang được các nhà nghiên
cứu quan tâm. Bởi hiện nay, bên cạnh những thuật ngữ chính xác, ngắn gọn,
khoa học quân sự vẫn còn tồn tại những cách sử dụng thuật ngữ quá dài dòng,
nhiều hình thức ngôn ngữ tương đương chỉ biểu thị một khái niệm, sử dụng
các thuật ngữ có hư từ và không có hư từ chưa thực sự hợp lý, sử dụng thuật
ngữ trong dịch thuật còn thiếu tính thống nhất… Ngoài ra, việc nghiên cứu
3

lý luận về thuật ngữ quân sự còn chưa nhiều. Ngoài một vài tập bài giảng,
một vài cuốn từ điển và một luận án tiến sĩ nghiên cứu về cấu tạo của hệ
thuật ngữ quân sự thì hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu hệ
thống, chuyên sâu bản chất về lớp từ vựng đặc thù này. Vì vậy, rất cần
thiết phải xem xét các mặt của thuật ngữ quân sự như cấu tạo, định danh
và cách sử dụng chúng nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho công tác chỉnh
lý, sử dụng và biên soạn từ điển.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Thuật ngữ quân sự trong
tiếng Việt trên bình diện cấu tạo và định danh”. Chúng tôi hi vọng, kết quả nghiên

cứu của đề tài góp phần bổ sung vào những phần khuyết thiếu trong hệ thống lý
luận về thuật ngữ quân sự tiếng Việt và đánh giá khách quan vai trò quan trọng
của chúng đối với chuyên môn quân sự trong thực tiễn cũng như sự phát triển
chung của ngôn ngữ. Đồng thời, luận án cũng bước đầu đề xuất những cách sử
dụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt phù hợp với hoạt động hành chức.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là 3216 thuật ngữ quân sự tiếng Việt
được thống kê từ các cuốn từ điển và một số tài liệu về khoa học quân sự, một
số hồi kí của các tướng lĩnh quân sự.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ các đơn vị của hệ thuật ngữ quân sự
tiếng Việt hiện đại được giới hạn về mặt thời gian từ năm 1930 đến nay: thời
điểm tiếng Việt trong giai đoạn hoàn thành một quá trình vận động một cách
nhanh chóng để hoàn thiện và hiện đại hóa; các phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ngày càng ngả theo xu hướng vô sản; các vận động quân sự vũ
trang cách mạng tập trung dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Về nội dung, luận án xác định thuật ngữ quân sự hiện đại nói trên được
nghiên cứu chủ yếu trên các đặc điểm cụ thể, đó là:
– Đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ quân sự tiếng Việt
4

– Đặc điểm định danh của thuật ngữ quân sự tiếng Việt
– Cách sử dụng của thuật ngữ quân sự tiếng Việt
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu, miêu tả những đặc điểm
cơ bản của thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt hiện đại về mặt cấu tạo từ, về mô
hình định danh và việc sử dụng chúng trong thực tế ngôn ngữ, nhất là trong lĩnh

vực chuyên môn quân sự và giao tiếp quân sự. Đồng thời củng cố và phát triển
cơ sở lí luận, thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện và sử dụng hệ thuật ngữ quân
sự trong tiếng Việt hiện đại phù hợp với giao tiếp chuyên môn quân sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Tổng quan tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới, ở Việt Nam
và thuật ngữ quân sự tiếng Việt ở Việt Nam.
– Trình bày một số cơ sở lí thuyết liên quan đến luận án là lí thuyết cấu
tạo từ, lí thuyết định danh và những khái niệm cơ bản về thuật ngữ, thuật ngữ
quân sự tiếng Việt.
– Khảo sát, miêu tả và phân tích hệ thống thuật ngữ quân sự tiếng Việt
hiện đại trên các mặt:
+ Đặc điểm cấu tạo
+ Đặc điểm định danh
+ Sử dụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt
4. Nguồn ngữ liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn ngữ liệu
Ngữ liệu nghiên cứu là các đơn vị thuật ngữ quân sự tiếng Việt hiện đại
được thu thập từ các nguồn sau đây:
– Từ các cuốn từ điển thuật ngữ quân sự tiếng Việt, từ điển Bách khoa
quân sự Việt Nam, các giáo trình tiếng Việt quân sự và giáo trình thuật ngữ
quân sự tiếng Việt dạy cho học viên quân sự nước ngoài.
– Từ các tài liệu văn bản trong lĩnh vực chuyên môn quân sự như: các
sách về nghệ thuật quân sự Việt Nam, tài liệu về thuật ngữ quân sự v.v.
5

– Từ các sách như hồi kí chiến tranh của các tướng lĩnh quân đội nhân
dân Việt Nam v.v.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các thủ pháp và phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

1) Thủ pháp thống kê
Thủ pháp thống kê được sử dụng trong luận án nhằm chỉ ra số lượng
thuật ngữ, tỉ lệ phần trăm thuật ngữ chia theo nguồn gốc, theo quan hệ, theo
cấu tạo, theo mô hình định danh. Số lượng phần trăm được trình bày dưới
dạng các bảng biểu. Những con số thống kê trong đề tài là cơ sở khoa học để
rút ra những luận điểm của thuật ngữ quân sự tiếng Việt về cấu tạo, về đặc
điểm định danh.
2) Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp được sử dụng để chỉ ra các
thành tố trực tiếp cấu tạo nên thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Trên cơ sở các
thành tố cấu tạo, người nghiên cứu chỉ ra được những mô hình phổ quát của
thuật ngữ quân sự xét về mặt cấu tạo. Đồng thời phương pháp này cũng được
áp dụng để chỉ ra các mô hình định danh thuật ngữ nhờ sự kết hợp của yếu tố
chỉ loại và yếu tố chỉ biệt loại.
3) Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được áp dụng để chỉ ra đặc điểm ngữ pháp và đặc
điểm định danh ngữ nghĩa của thuật ngữ quân sự tiếng Việt.
4) Phương pháp so sánh – đối chiếu
Phương pháp này được áp dụng để tìm ra sự tương đồng và khác biệt
của thuật ngữ quân sự tiếng Việt và các thuật ngữ quân sự nước ngoài được
lấy làm đối tượng so sánh như tiếng Anh, tiếng Nga. Trên cơ sở đó góp phần
vào việc sử dụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt khoa học, chính xác trong
phiên dịch, biên dịch. Phương pháp này được dùng khi phân tích ngữ liệu
trong phần dịch thuật thuật ngữ quân sự tiếng Việt ở chương 4.
5. Đóng góp của đề tài
6

Kết quả nghiên cứu của đề tài làm sáng tỏ lí thuyết từ vựng trên các
mặt cấu tạo, định danh và sử dụng trên cứ liệu của một lớp từ vựng

chuyên biệt trong tiếng Việt hiện đại vốn chưa được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm chú ý là hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt.
Kết quả của đề tài cũng góp phần bổ sung những vấn đề nghiên cứu
lý thuyết về thuật ngữ học và chuẩn hóa thuật ngữ.
Luận án làm nổi bật bức tranh toàn cảnh về hệ thuật ngữ quân sự trong
hệ thống và trong hoạt động của tiếng Việt hiện đại. Đề nghị các nguyên tắc
có tính định hướng trong sử dụng thuật ngữ quân sự, trong giảng dạy tiếng
Việt quân sự, giao tiếp, phiên – biên dịch quân sự, biên soạn giáo trình tài liệu
quân sự và biên soạn từ điển thuật ngữ quân sự tiếng Việt.
Đồng thời cung cấp nguồn ngữ liệu cho nghiên cứu thuật ngữ ở Việt
Nam và trên thế giới.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Cấu tạo thuật ngữ quân sự tiếng Việt
Chương 3: Định danh thuật ngữ quân sự tiếng Việt
Chương 4: Sử dụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt

7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới
Nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới được bắt đầu gắn liền với tên tuổi
của nhà nghiên cứu sinh học Carlvon Linne – 1736 (người Thụy Điển) và các
nhà nghiên cứu hóa học A.L. Lavoisier -1743, Louis-Bernard GuytonMorveau -1737, Marcellin Berthelot – 1827, A.F.de Fourcoy – 1755 (người
Pháp). Đó là những nhà nghiên cứu đặt nền móng cho khoa học sinh học, hóa
học và cũng là những người có công lớn trong việc chuẩn hóa danh pháp thực

vật học, động vật học và hóa học.
Kể từ đó phong trào nghiên cứu thuật ngữ được tiến hành ở hàng loạt
quốc gia trên thế giới và các quốc gia có hệ thuật ngữ phát triển nhất, có thể
kể đến Nga, Anh, Pháp, Đức, Italia… Ở các nước này, thuật ngữ khoa học
được nghiên cứu từ nhiều góc độ, trước hết và tập trung hơn cả là vấn đề
hệ thống hóa thuật ngữ trong biên soạn các loại từ điển thuật ngữ chuyên
ngành, bao gồm từ điển giải thích thuật ngữ (từ điển bách khoa thư) và từ
điển đối chiếu (từ điển song ngữ – đa ngữ), tuy vậy, “cũng chỉ bao trùm
được gần 300 lĩnh vực đối tượng – chuyên môn, đồng thời ở mỗi ngôn ngữ
riêng biệt thì mỗi lĩnh vực đã được xây dựng thuật ngữ không nhiều như
thế” [68,17]. Tiếp đến là những nghiên cứu mang tính học thuật chuyên
sâu như vấn đề khái niệm thuật ngữ, chức năng của thuật ngữ, vấn đề cấu
tạo ngữ nghĩa, ngữ pháp của thuật ngữ v.v…
Tuy vậy, phải đến đầu thế kỉ XX, việc nghiên cứu thuật ngữ mới mang
tính chuyên sâu và có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của thuật ngữ học
nói riêng và ngôn ngữ học nói chung. Đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu thuật
ngữ là các nhà khoa học Liên Xô cũ, các nhà khoa học Áo, Tiệp Khắc,
Canada. Thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học này đã mang đến những
dấu mốc quan trong làm thay đổi diện mạo của ngành khoa học về thuật ngữ.
8

Về cơ bản, có thể kể ra đây ba trường phái nghiên cứu thuật ngữ là: Trường
phái nghiên cứu thuật ngữ của Áo, Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của
Tiệp Khắc và Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Liên xô.
1.1.1.1. Trường phái nghiên cứu thuật ngữ Áo
Những tư tưởng lớn về thuật ngữ của trường phái này gắn với tên tuổi
của nhà nghiên cứu E. Wuster (1898 – 1977). Ông là người đặt nền móng cho
ngành nghiên cứu thuật ngữ ở Áo và cũng là người có anhe hưởng quyết định
đến những luận điểm khoa học về thuật ngữ trên đất nước này. Ba luận điểm

khoa học có tầm vóc lớn nhất về thuật ngữ của ông được trình bày trong cuốn
Lí luận chung về thuật ngữ (1931) đã mở ra các đường hướng nghiên cứu
rộng mở cho ngành nghiên cứu lí luận và thực tiễn cảu thuật ngữ sau này, đó
là: xác định phương pháp nghiên cứu thuật ngữ; phương pháp xử lý dữ liệu
thuật ngữ; xác định tên gọi của hệ thống khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực
kĩ thuật và cuối cùng là một số nguyên tắc xây dựng thuật ngữ.
Mục tiêu quan trọng nhất của trường phái nghiên cứu thuật ngữ Áo là
xác định tên gọi khái niệm thuật ngữ nhằm chuẩn hóa xây dựng thuật ngữ.
1.1.1.2. Trường phái nghiên cứu thuật ngữ Tiệp Khắc
Các nhà khoa học Tiệp Khắc không nghiên cứu thuật ngữ theo xu
hướng quốc tế hóa như các nhà khoa học Liên Xô mà xây dựng hệ thuật ngữ
Slavơ trong sự đối lập với ngôn ngữ Đức và Hy Lạp. “Nếu như ở Liên Xô,
các nhà khoa học thực hiện theo hướng quốc tế hóa các thuật ngữ, thì ở Tiệp
Khắc lại hướng mọi hoạt động cơ bản vào việc xây dựng các yếu tố tương đương
của quốc gia, Slavơ, đối lập với các thuật ngữ Đức và Hy Lạp – Latin” [68,16].
Người khởi xướng của trường phái này là L. Drodz. Từ cách tiếp cận
nghiên cứu ngôn ngữ theo hướng chức năng luận của trường phái Praha, ông chú
trọng nghiên cứu thuật ngữ theo hướng cấu trúc chức năng và chức năng của thuật
ngữ là tạo nên nền tảng của văn bản khoa học. Công việc nghiên cứu cấu trúc
chức năng của thuật ngữ phục vụ chủ yếu cho công việc chuẩn hóa thuật ngữ nói
riêng và chuẩn hóa ngôn ngữ nói chung.
9

1.1.1.3. Trường phái nghiên cứu thuật ngữ Liên Xô
Từ những năm 1970 đến những năm1990, nghiên cứu thuật ngữ đã trở
thành một chuyên ngành khoa học ngôn ngữ độc lập, có đối tượng, mục đích
nghiên cứu riêng. Thành tựu to lớn nhất tập trung ở những nghiên cứu của các
tác giả Liên Xô cũ. Hàng loạt từ điển bách khoa thuật ngữ chuyên ngành,
hàng trăm luận án tiến sĩ ra đời trong khoảng thời gian này đánh dấu bề dày

nghiên cứu thuật ngữ với tư cách một chuyên ngành ngôn ngữ học độc lập.
Nói như Vũ Quang Hào: “về điều này có thể phải viết hẳn một cuốn sách”
[31, 9]. Tiêu biểu nhất là những công trình về mặt lý luận ngôn ngữ của A.A.
Refomatsky, N.P. Cudơkin, G.O Vinokur, V.V. Vinôgrađôp… Các tác giả Liên
Xô này thường tập trung chú ý chủ yếu vào chức năng của thuật ngữ, quan hệ
giữa thuật ngữ với khái niệm…
Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Liên Xô được tổng kết trong công
trình “Thuật ngữ học – Những vấn đề lí luận và thực tiễn”[55] được chia làm
bốn thời kì: thời kì chuẩn bị; thời kì thứ nhất; thời kì thứ hai; thời kì thứ ba.
Qua các thời kì phát triển, các nhà nghiên cứu thuật ngữ Liên Xô quan tâm
chủ yếu đến các vấn đề: phương thức sáng tạo thuật ngữ, nguyên tắc xây dựng
thuật ngữ, chỉnh lí thuật ngữ. Hiện nay, khoa học thuật ngữ Liên Xô đã phát
triển lên tầm cao mới theo hướng tri nhận luận.
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu thuật ngữ của các nước trên thế giới
đều gắn liền với những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ trên
các lĩnh vực chuyên môn khoa học của đời sống và trình độ chuyên môn
hoá trong sự phát triển của ngành ngôn ngữ học ở mỗi nước. Mức độ đa
dạng và chuyên sâu của hệ thống các loại từ điển thuật ngữ chuyên
ngành; mức độ phong phú và sâu sắc về mặt lý luận thuật ngữ học phụ
thuộc vào nhiều yếu tố trong sự phát triển của nền ngôn ngữ học mỗi
nước nhưng trước hết, điều đó bắt nguồn từ chính bản thân các ngôn ngữ
và sự phát triển của các ngành khoa học.
10

1.1.2. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ ở Việt Nam
Nghiên cứu thuật ngữ được đặt ra một cách có hệ thống ở Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX. Người mở đầu cho công cuộc nghiên cứu về thuật ngữ là
Dương Quảng Hàm. Ông quan niệm tiếng An Nam không thể mượn tiếng
Pháp mà nên mượn tiếng Hán để dịch thuật thuật ngữ “về triết học, khoa học,

kĩ nghệ, Tàu dịch đúng và gần đủ, tiếng Tàu đồng chủng với tiếng ta” [68, 23].
Đào Duy Anh trong Từ điển Hán Việt đã giới thiệu hàng loạt thuật ngữ
Hán – Việt ở nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, người có
công lao đầu tiên trong việc sưu tầm, sắp xếp thuật ngữ thành một hệ thống là
Hoàng Xuân Hãn, tác giả công trình“Danh từ khoa học”. Đây là công trình
đầu tiên ghi chép một cách có hệ thống những thuật ngữ về toán học, hóa học,
vật lí học… trong tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ. Cuốn sách cũng là bảng tổng
kết cách thức xây dựng thuật ngữ dựa vào từ thông thường, mượn tiếng Hán
và phiên âm từ ngôn ngữ Ấn – Âu.
Tuy nhiên, có thể nói, chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất
là sau Kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1954), cùng với sự phát triển của
tiếng Việt và ngành Việt ngữ học, công tác nghiên cứu thuật ngữ chuyên
ngành mới thật sự được chú trọng và đã đạt được những bước tiến mới trên cả hai
góc độ nghiên cứu lý luận về thuật ngữ và xây dựng các hệ thuật ngữ cũng như biên
soạn từ điển thuật ngữ.
Về mặt nghiên cứu biên soạn các loại từ điển thuật ngữ chuyên ngành, thành
tựu thu được bao gồm các loại từ điển giải thích thuật ngữ tiếng Việt (từ điển bách
khoa chuyên ngành) và từ điển đối chiếu thuật ngữ (song ngữ – đa ngữ)…
Về mặt nghiên cứu lý luận, cuối tháng 12 năm 1964, Ủy ban Khoa học
nhà nước đã tổ chức một Hội nghị khoa học chuyên về thuật ngữ khoa học
tiếng Việt. Hội nghị đã bàn về Vấn đề xây dựng thuật ngữ khoa học và cử ra
một Ban chuyên nghiên cứu về thuật ngữ bao gồm các nhà khoa học như: Tạ
Quang Bửu, Nguyễn Thạc Cát, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Văn Chiển, Ngụy
11

Như Kon Tum, Lưu Vân Lăng, Trương Công Quyền… Đến tháng 5 năm 1965,
Ủy ban Khoa học nhà nước lại triệu tập Hội nghị và thông qua bản qui tắc về
xây dựng thuật ngữ tiếng Việt. Tháng 6 năm 1965, bản qui tắc về thuật ngữ
tiếng Việt được công bố tạm thời áp dụng trong tất cả các ngành khoa học.

Đây là một bước tiến mới tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xây dựng thuật
ngữ cũng như công tác nghiên cứu thuật ngữ phát triển. Kết quả là “qua hơn
mười năm áp dụng bản nguyên tắc đó, các nhà thuật ngữ học Việt Nam đã
hoàn thành được một khối lượng công việc đáng kể. Hơn 50 cuốn thuật ngữ
đối chiếu đã được biên soạn. Trong hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ, rõ ràng
phải nhiệt tình lắm mới có thể làm được những việc như thế” [57, 93].
Tiếp đến là hàng loạt những công trình nghiên cứu về thuật ngữ của các
tác giả Việt ngữ học dưới góc nhìn từ bản thân nội tại tiếng Việt. Hầu hết các
nhà nghiên cứu đều mặc nhiên thừa nhận thuật ngữ là một bộ phận hữu cơ của
vốn từ vựng tiếng Việt trong ngôn ngữ văn hóa toàn dân.
Đỗ Hữu Châu [7] xem thuật ngữ tiếng Việt là hệ thống từ ngữ đơn
phong cách và sự phát triển của thuật ngữ gắn liền với sự phát triển kinh tế,
chính trị, xã hội của Việt Nam. Đó là hệ thống từ ngữ có tính cách “bảo thủ”
về nghĩa, mỗi từ như là một “cái nhãn” [7, 222] dán lên sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan. Các từ này xét về mặt cấu tạo, ngữ nghĩa và nguồn
gốc, ngoài những đặc điểm loại biệt ra đều không nằm ngoài qui luật vận
động phát triển chung của hệ thống từ vựng tiếng Việt, nhưng xét ở phạm vi sử
dụng thì chúng vẫn là những từ có ngoại diên hẹp và nội hàm khá trừu tượng.
Các tác giả Nguyễn Đức Tồn [68], Hà Quang Năng [57], Lê Quang Thiêm
[66] đều cho rằng năm 1930 là một cái mốc đánh dấu sự xuất hiện của thuật ngữ
khoa học tiếng Việt, ban đầu chủ yếu là thuật ngữ khoa học xã hội; đồng thời quan
tâm đến vấn đề dịch và đặt thuật ngữ tiếng Việt theo hướng thuận lợi, ngắn gọn, dễ
hiểu.

12

Tác giả “Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì 1858 – 1945”, Lê Quang
Thiêm [66], từ bối cảnh xã hội ngôn ngữ của từng thời kì đã chỉ ra những biểu
hiện từ vựng ở lát cắt đồng đại, lịch đại và vai trò của chúng với văn hóa, kinh

tế chính trị của đất nước. Giai đoạn cuối thế kỉ XIX, lớp thuật ngữ thuần Việt
bằng chữ quốc ngữ hầu như không có mặt trong các thể loại văn bản. Tuy
nhiên, do sự ảnh hưởng của lịch sử chính trị, xã hội thời phong kiến nên hệ
thống thuật ngữ Hán – Việt như vua, quan, triều đình, chiếu, biểu, bộ binh, bộ
hình, bộ lại, tổng trấn, thừa tướng… cũng xuất hiện khá nhiều. Những thuật
ngữ chỉ cơ chế chính trị – xã hội thực dân cũng bắt đầu xuất hiện như đô đốc,
thống sứ, toàn quyền, bảo hộ, thuộc địa… Đến giai đoạn từ 1900 – 1930, một
lớp từ ngữ chính trị xã hội mới bắt đầu hình thành, được dùng với tính chất
chuyên môn, chuyên dùng như thuật ngữ. Đây là một bộ phận từ vựng quan
trọng mở đầu cho sự xuất hiện của các thuật ngữ khoa học xã hội về lịch sử,
văn học, giáo dục… Số lượng các thuật ngữ này phát triển nhờ con đường vay
mượn gián tiếp hoặc trực tiếp, cải tiến, sáng tạo mới. Đến giai đoạn 1930 1945 là thời kỳ hoàn thiện và hiện đại hóa tiếng Việt, thời kỳ mà thành tựu
phát triển của tiếng Việt trong 15 năm có thể sánh ngang với hàng trăm năm
của người thì thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn, tiếp đó là sự xuất hiện
của hệ thống thuật ngữ khoa học tự nhiên, công nghệ, thương mại… cũng dần
được phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đây cũng là
thời kỳ nở rộ thuật ngữ của các chuyên ngành khoa học và kỹ thuật.
Hà Quang Năng, [57] cho rằng lịch sử tiếng Việt phát triển qua bốn giai
đoạn: Sự xuất hiện của người Pháp và sự ra đời của chữ quốc ngữ, sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, những năm 60 của thế kỉ XX, sau năm 1985.
Những dấu mốc này đã ghi dấu ấn mạnh mẽ cho sự phát triển của tiếng Việt
cũng như của các hệ thuật ngữ trong tiếng Việt. Trong công trình này, tác giả

13

đã xem xét thuật ngữ trên cơ sở thống kê, phân tích ngữ liệu và chỉ ra các
phương thức xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt.
Nguyễn Đức Tồn trong chuyên khảo Thuật ngữ học tiếng Việt hiện
đại[68], đã chỉ ra tiến trình nghiên cứu lịch sử thuật ngữ trên thế giới cũng

như ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu khái niệm và các tiêu chuẩn của thuật
ngữ. Đồng thời, tác giả áp dụng lý thuyết điển mẫu vào việc chuẩn hóa thuật
ngữ tiếng Việt. Công trình của tác giả là một bảng tổng kết thành tựu nghiên
cứu thuật ngữ trên thế giới, ở Việt Nam và một số hệ thuật ngữ chuyên ngành.
Có thể nói, những phân tích, lý giải về thuật ngữ tiếng Việt của công trình
nghiêm túc này còn mang tính thời sự, chứa đựng những nét nổi bật, có ý
nghĩa định hướng về học thuật trong nghiên cứu lý luận thuật ngữ cũng như
trong việc hệ thống hóa các hệ thuật ngữ chuyên ngành của ngôn ngữ. Thành
tựu của cuốn sách là những gợi ý vô cùng thiết thực với việc triển khai nội
dung luận án ở lĩnh vực thuật ngữ quân sự.
Nghiên cứu thuật ngữ còn được đề cập đến trong nhiều luận án tiến sĩ
như: Thuật ngữ khoa học kĩ thuật xây dựng trong tiếng Việt [40], Đặc điểm cấu
tạo thuật ngữ thương mại Việt – Nhật [29], So sánh đặc điểm cấu tạo hình thức và
ngữ nghĩa của thuật ngữ tài chính – kế toán – ngân hàng trong tiếng Anh và
tiếng Việt [70], Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách phiên chuyển sang tiếng
Việt [54], Nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên tiếng
Việt (trên tư liệu thuật ngữ Toán-Cơ-Tin học-Vật lý)[34], Khảo sát hệ thuật ngữ tin
học-viễn thông tiếng Việt [64]. Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa hệ thuật ngữ khoa
học hình sự tiếng Việt [35], Đối chiếu thuật ngữ âm nhạc Việt – Anh [16], …
Trên cơ sở nghiên cứu thuật ngữ ở một chuyên ngành khoa học, những
công trình trên đã làm rõ đặc điểm cấu tạo và các phương thức định danh
thuật ngữ thuộc chuyên môn hẹp. Kết quả của những công trình trên là sự gợi
ý cho chúng tôi trong nghiên cứu thuật ngữ với tư cách là lớp từ chuyên môn
khoa học mang tính đặc thù.
14

1.1.3. Tình hình nghiên cứu thuật ngữ quân sự ở Việt Nam
Như trên đã trình bày, bối cảnh ngôn ngữ của tiếng Việt từ 1930 đến
nay trong điều kiện của một đất nước ròng rã hơn nửa thế kỉ trải qua các cuộc

chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh chống ngoại xâm bảo vệ Tổ
quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chiến tranh nhân dân và nền
quốc phòng toàn dân, hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt đã trở thành một lớp từ
vựng khá đặc biệt, có một đời sống vô cùng độc đáo, sinh động không chỉ
trong giao tiếp quân sự mà cả trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân.
Tuy vậy, những công trình nghiên cứu về thuật ngữ quân sự tiếng Việt có tính
chuyên sâu ở Việt Nam xuất hiện khá muộn và cũng có thể nói là… hiếm hoi.
Trong suốt một thời gian dài, từ khi hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật ra đời
1930 [57], [68], [66] cho đến tận 1985, mới có một cuốn từ điển giải thích về
thuật ngữ quân sự, đó là Từ điển giải thích thuật ngữ quân sự tiếng Việt của
Cục Khoa học quân sự với 1500 mục từ. Đến năm 2007, Trung tâm từ điển
bách khoa Quân sự, Bộ Quốc phòng chỉnh lí, bổ sung, sửa chữa và xuất bản
thành cuốn Từ điển thuật ngữ Quân sự với 2500 mục từ. Ở cả hai cuốn từ
điển này, về cấu trúc vĩ mô, hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt được chia thành 4
nhóm đề mục lớn là: thuật ngữ quân sự chung, thuật ngữ quân sự binh chủng
hợp thành, thuật ngữ quân sự các quân – binh chủng và thuật ngữ quân sự các
ngành chuyên môn quân sự. Trong mỗi nhóm đề mục nói trên, các đơn vị
thuật ngữ được sắp xếp theo trật tự ngữ âm. Về cấu trúc vi mô, cấu trúc mỗi
mục từ bao gồm 3 phần: 1. Định nghĩa khái niệm thuật ngữ. 2. Giải thích định
nghĩa, tức là phần giải thích mở rộng, dẫn giải trong thực tế để giúp người đọc
hiểu thêm về những chỗ còn trừu tượng hay khó hiểu trong nội dung khái
niệm đã được định nghĩa. 3. Lấy ví dụ hay dẫn chứng trong thực tiễn lịch sử
(ở những trường hợp cần thiết) về đối tượng định danh của thuật ngữ quân sự.

15

Năm 1996, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Bộ Quốc phòng
Quân đội nhân dân Việt Nam cho ấn hành cuốn sách đồ sộ: “Từ điển Bách
khoa quân sự Việt Nam”[73] với 5100 mục từ. Đây thực sự là cuốn từ điển

bách khoa thư về quân sự chứ không phải một công trình chuyên nghiên cứu
biên soạn về thuật ngữ nên ngoài việc giải thích các thuật ngữ quân sự, cuốn
sách cũng tập hợp cũng giải thích cả các danh pháp quân sự, địa danh quân
sự, sự kiện quân sự v.v… Sau này, ở một số lĩnh vực chuyên môn quân sự có
tính chuyên môn hoá cao như pháo binh, không quân, hải quân… do nhu cầu
công tác, nhiều đơn vị, tổ chức trong quân đội cũng đã cố gắng biên soạn
những cuốn từ điển thuật ngữ quân sự dùng riêng cho chuyên ngành mình
như: Từ điển phòng không của Quân chủng phòng không, Từ điển pháo binh
của Bộ tư lệnh Pháo binh,…
Về mặt lý luận, thuật ngữ quân sự tiếng Việt lần đầu tiên được đưa vào
giảng dạy như một môn học cơ sở ngành tại Trường Đại học Ngoại ngữ Quân
sự từ những năm 1982 – 1983 với tập bài giảng của các giảng viên: Dương Kỳ
Đức, Vũ Quang Hào…. Năm 2014, tác giả Nguyễn Trọng Khánh đã biên soạn
cuốn giáo trình “Thuật ngữ quân sự tiếng Việt”[45], HVKHQS (lưu hành nội
bộ), gồm 3 chương, đi từ những khái niệm cơ bản đến các đặc trưng của thuật
ngữ quân sự tiếng Việt (về nguồn gốc, cấu tạo, ý nghĩa và phương thức biểu
đạt – đặc trưng về ngữ dụng) và các vấn đề về chuẩn hoá và sử dụng thuật ngữ
quân sự trong biên – phiên dịch và giao tiếp quân sự. Kế thừa thành tựu của
các tác giả đi trước, giáo trình đã lý giải và chỉ ra những đặc điểm về kích
thước, cấu tạo, nguồn gốc, đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ dụng của hệ thuật ngữ
quân sự tiếng Việt với tư cách là một lớp từ vựng mang tính chuyên biệt đặc
thù. Đặc biệt, tác giả rất chú ý đến những yêu cầu khi sử dụng thuật ngữ quân
sự tiếng Việt trong thực tiễn hoạt động quân sự, trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy chuyên môn quân sự, phiên – biên dịch quân sự và nghiên cứu biên
16

soạn các loại từ điển thuật ngữ quân sự. Đồng thời, tác giả còn cung cấp một
số lượng không nhỏ các đơn vị của hệ thống thuật ngữ quân sự tiếng Việt
trong cuốn “Những thuật ngữ quân sự thường dùng” (cuốn sách tham khảo

được biên tập dùng làm tài liệu bổ trợ cho giáo trình Thuật ngữ quân sự tiếng
Việt). Đây là những đơn vị của hệ thuật ngữ quân sự được sử dụng một cách
thường xuyên, có tần suất sử dụng cao trong hoạt động chuyên môn quân sự
như huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện chuyên môn quân sự, sinh
hoạt quân sự, trong phiên dịch, biên dịch và giao tiếp quân sự.
Hệ thống lý luận và hệ thống ngữ liệu cụ thể trong những giáo trình, tài
liệu trên đây thật sự là những cơ sở lý luận và nguồn ngữ liệu thiết thực vô
cùng quý báu đối với chúng tôi khi nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về
hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Cùng với hệ thống giáo trình, tài liệu
giảng dạy, trong Việt ngữ học cũng có một số ít công trình nghiên cứu,
luận văn, luận án, bài báo khoa học… đề cập đến hệ thuật ngữ quân sự
trong tiếng Việt. Trong số đó phải kể đến công trình luận án tiến sĩ của
tác giả Vũ Quang Hào: Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt: đặc điểm và cấu
tạo thuật ngữ [31]. Luận án bước đầu tìm hiểu đặc điểm của thuật ngữ
quân sự và các mẫu cấu tạo thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt. Có thể nói,
đây là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về cấu tạo của thuật ngữ
quân sự tiếng Việt.
Có thể nhận thấy nghiên cứu thuật ngữ quân sự tiếng Việt ở Việt Nam
tập trung chủ yếu vào việc biên soạn từ điển, định nghĩa khái niệm đối tượng
quân sự, xem xét các mặt cấu tạo, ngữ nghĩa của thuật ngữ, xác định các con
đường hình thành thuật ngữ quân sự nhằm mục đích chuẩn hóa để sử dụng
phù hợp với giao tiếp quân sự.
Như vậy, hệ thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt hiện đại cũng đã thật sự
được chú ý nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. Bên cạnh việc biên soạn
các loại từ điển chuyên ngành phục vụ trực tiếp công tác chuyên môn và giao
17

tiếp quân sự, việc nghiên cứu lí luận về thuật ngữ cũng khá đa dạng. Từ việc
biên soạn các giáo trình, tài liệu giảng dạy đến các bài báo khoa học và

nghiên cứu chuyên sâu về hệ thuật ngữ dưới nhiều góc độ, từ vấn đề khái
niệm cho đến cấu trúc từ vựng – ngữ pháp, các đặc trưng ngữ nghĩa và cả
ngữ dụng, vấn đề chuẩn hoá thuật ngữ v.v… đều đã được ít nhiều đề cập.
Tuy nhiên, có thể thấy rõ là vẫn còn cần thiết phải nghiên cứu có
tính chất thật đầy đủ, toàn diện và hệ thống về thuật ngữ quân sự trong
tiếng Việt, đặc biệt trong đó có vấn đề về nghiên cứu đồng thời các đặc
điểm cấu tạo, định danh và sử dụng.
1.2. Cơ sở lí luận
1.2.1. Một số vấn đề lí luận về thuật ngữ quân sự tiếng Việt
1.2.1.1. Về khái niệm thuật ngữ
Dựa trên những tiêu chí khác nhau, các nhà khoa học trên thế giới cũng
như ở Việt Nam đã đưa ra một số lượng không nhỏ quan niệm về thuật ngữ.
Các nhà nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới, thuộc các trường phái khác
nhau như E. Wuster (Áo); L.Drodz (Czech)… nghiên cứu thuật ngữ dựa vào
việc tìm ra khái niệm, chuẩn hóa thuật ngữ, đặc biệt là tìm hiểu thuật ngữ dựa
vào cấu trúc, chức năng.
Các nhà ngôn ngữ học Nga, khi nghiên cứu về thuật ngữ, chịu ảnh
hưởng sâu sắc của trường phái ngôn ngữ Vienna (Áo) và trường phái ngôn
ngữ học Czech. Đại biểu cho tư tưởng này là N.P. Cudơkin. Ông cho rằng:
“cả về hình thức lẫn nội dung không thể tìm thấy đường ranh giới thực nào
giữa từ thông thường, từ phi chuyên môn với từ của vốn thuật ngữ. Đường ranh
giới hiện thực, khách quan giữa hai loại từ này về thực chất là một đường ranh
giới ngoài ngôn ngữ. Nếu như từ thông thường, từ phi chuyên môn tương ứng với
đối tượng thông dụng, thì từ của vốn thuật ngữ lại tương ứng với đối tượng
chuyên môn mà chỉ hạn hẹp các chuyên gia biết đến. Giữa hai loại từ này không
hề tồn tại một đường ranh giới nào khác nữa”. [dẫn theo 31, 9]
18

Các nhà thuật ngữ học lỗi lạc Liên Xô, G.O. Vinôcua; Vinôgrađôp, L.A

Kapanadze lại xem xét thuật ngữ ở cấu trúc, chức năng của chúng.
Cũng bàn về khái niệm thuật ngữ, một số nhà ngôn ngữ học Xô Viết lại
xác định thuật ngữ trong mối quan hệ với khái niệm. Theo“Bách khoa toàn
thư quân sự Liên Xô”[21], thuật ngữ theo tiếng Latinh là terminua, là từ và
cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái niệm và quan hệ của nó với những khái
niệm khác trong giới hạn của phạm vi chuyên ngành, thuật ngữ là cái biểu thị
vốn đã chuyên biệt hóa, hạn định hóa về sự vật hiện tượng, thuộc tính và quan
hệ của chúng đặc trưng cho phạm vi chuyên môn đó.
Nhà thuật ngữ học đại diện tiêu biểu cho quan niệm thuật ngữ gắn với khái
niệm là tiến sĩ V.P. Đanilenko. Bà quan niệm: “bản chất của thuật ngữ với tư cách
là một khái niệm hoàn toàn không trùng khít với từ thông thường của ngôn ngữ
toàn dân… thuật ngữ gọi tên khái niệm chuyên môn”[dẫn theo 31, 13].
Cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa thuật ngữ và khái niệm, các nhà ngôn
ngữ học Âu – Mỹ cho rằng: “Thuật ngữ là một tập hợp các khái niệm, trong mỗi
lĩnh vực chuyên ngành đều có các mô hình cấu trúc đại diện cho tập hợp các khái
niệm. Kiến thức khoa học được sắp xếp thành các cấu trúc khái niệm, các phương
tiện biểu đạt ngôn ngữ và kí hiệu tương ứng được sử dụng trong văn phong khoa
học và bình luận các ngôn bản khác”[dẫn theo 54, 11]
Tất cả những định nghĩa trên về thuật ngữ ở một phạm vi nào đó đã đề
cập đến một phần bản chất của thuật ngữ và cung cấp cơ sở lí luận cho nghiên
cứu thuật ngữ tiếng Việt nói chung và thuật ngữ quân sự nói riêng.
Ở Việt Nam, khái niệm thuật ngữ cũng được nhìn nhận ở nhiều khía
cạnh khác nhau từ mối quan hệ của thuật ngữ với khái niệm, chức năng, ngữ
nghĩa, cấu trúc,… Những tư tưởng này được phản ánh trong công trình nghiên
cứu của các nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Lê
Khả Kế, Hoàng Văn Hành, Lưu Văn Lăng, Hà Quang Năng, Nguyễn Như Ý,
Hồng Dân, Nguyễn Đức Tồn, Võ Xuân Trang….

19

Từ mối quan hệ giữa thuật ngữ và khái niệm, Nguyễn Thiện Giáp cho
rằng:“Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt của ngôn ngữ. Nó bao gồm
những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác của các loại khái niệm và
các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của con người”[27, 270].
Cũng cùng quan niệm với Nguyễn Thiện Giáp, trong công trình khoa
học Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỉ XX, Hà Quang Năng
nhận xét: “Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một khái niệm xác định thuộc
hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định”[57, 94].
Dựa vào góc độ ngữ nghĩa, trong Giáo trình Việt ngữ, Đỗ Hữu Châu quan niệm:
Thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một
ngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy. Có
thuật ngữ của ngành vật lí, ngành hóa học, toán học, thương mại, ngoại
giao… Đặc tính của những từ này là phải cố gắng chỉ có một ý nghĩa,
biểu thị một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kĩ
thuật nhất định”[9, 167].
Sau đó 20 năm trong giáo trình Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Đỗ
Hữu Châu giải thích rõ hơn: “Thuật ngữ khoa học kĩ thuật bao gồm các
đơn vị từ vựng được dùng để biểu thị những sự vật, hoạt động, đặc điểm…
trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học
tự nhiên hay khoa học xã hội. Khác với từ thông thường, thuật ngữ có ý
nghĩa biểu vật trùng hoàn toàn với sự vật, hiện tượng .., có trong thực tế,
đối tượng của ngành kĩ thuật và ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa biểu
niệm của chúng cũng là những khái niệm về các sự vật hiện tượng này
đúng như chúng tồn tại trong tư duy. Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ
không xảy ra sự chia cắt thực tế khách quan theo cách riêng của ngôn
ngữ. Mỗi thuật ngữ là cái nhãn dán vào đối tượng này”[7,222].
Dựa vào chức năng ngữ nghĩa của thuật ngữ, Hồng Dân định nghĩa:

20

Thuật ngữ là một đơn vị định danh, tính chất này đảm bảo cho thuật
ngữ có khả năng tách biệt với mọi ngữ cảnh, không bị ngữ cảnh làm sai lạc
nội dung nó biểu thị”[15, 118].
Dựa vào cấu trúc, nội dung, phạm vi sử dụng, các nhà ngôn ngữ Đái
Xuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn quan niệm:
Thuật ngữ là từ, cụm từ biểu đạt chính xác một khái niệm của một lĩnh
vực chuyên môn nào đó. Thuật ngữ nằm trong hệ thống từ vựng nói chung
của ngôn ngữ nhưng chỉ tồn tại trong một hệ thống thuật ngữ cụ thể, nghĩa là
nó chỉ được dùng trong ngôn ngữ chuyên môn.
Toàn bộ các thuật ngữ của một lĩnh vực sản xuất, hoạt động, tri thức
tạo nên một lớp từ đặc biệt tạo thành một hệ thống thuật ngữ.
Bất cứ một ngành khoa học (tự nhiên hay xã hội) nào cũng cần phải có
một tập hợp từ ngữ được xác định một cách nghiêm ngặt, dùng để biểu thị
khái niệm về sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm… trong ngành đó. Lớp
từ vựng bao gồm những đơn vị từ vựng như vậy được gọi là hệ thống thuật
ngữ của mỗi ngành khoa học[59, 64].
Dựa vào tiêu chuẩn mang tính đặc trưng của thuật ngữ, Lưu Văn Lăng,
quan niệm: Thuật ngữ tiếng Việt phải: 1) chính xác, 2) có hệ thống, 3) tính
bản ngữ, 4) ngắn gọn, cô đọng, 5) dễ dùng; trong đó ba tiêu chuẩn đầu là ba
yêu cầu cơ bản mà tính chính xác là quan trọng nhất [49, 182].
Chia sẻ quan niệm với Lưu Văn Lăng, tác giả Như Ý khẳng định:
Yêu cầu cơ bản của thuật ngữ là: 1) tính định danh, 2) tính chính xác,
3) tính hệ thống, 4) tính bản ngữ [74, 117].
Như vậy, mặc dù có cách tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản, thuật
ngữ đều được nhìn nhận ở những đặc trưng nổi bật:
Thuật ngữ là một loại đơn vị từ vựng nằm trong hệ thống vốn từ của
một ngôn ngữ;
Kích thước cấu tạo của thuật ngữ có thể là một từ (từ đơn, từ ghép)

hoặc một cụm từ được sử dụng cố định trong phạm vi giao tiếp chuyên môn
khoa học của con người;
21

Chức năng cơ bản của thuật ngữ là chức năng định danh, dùng để gọi
tên chính xác các khái niệm và đối tượng trong từng lĩnh vực hay từng ngành
chuyên môn khoa học đó;
Các thuật ngữ trong lĩnh vực chuyên môn tập hợp thành một hệ thống
vựng riêng gọi là hệ thuật ngữ của lĩnh vực hay ngành chuyên môn khoa học
Về mặt ngữ nghĩa, thuật ngữ là đơn vị từ vựng thường chỉ có một
nghĩa, là nghĩa biểu vật hay biểu niệm. Nội dung ngữ nghĩa này của thuật ngữ
là cố định trong mọi ngữ cảnh, tức là nó không bị ngữ cảnh chi phối như các
từ ngữ thông thường;
Về mặt yêu cầu, thuật ngữ cần đảm bảo có: tính định danh, tính chính
xác, tính hệ thống, tính dân tộc, tính quốc tế, tính tiện dụng…
Dựa trên những quan niệm trên đây về thuật ngữ, luận án đồng tình với
định nghĩa: “Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc biểu thị đối tượng
trong phạm vi một lĩnh vực khoa học, công nghệ hoặc chuyên môn”[68, 364].
1.2.1.2. Thuật ngữ quân sự
a. Khái niệm thuật ngữ quân sự
Thuật ngữ quân sự là lớp từ chia theo phạm vi sử dụng. So với từ vựng
toàn dân thì thuật ngữ quân sự có phạm vi hoạt động hẹp hơn. Tuy vậy, thuật
ngữ quân sự vẫn mang những đặc trưng chung của hệ thống từ vựng tiếng
Việt, sau đó nó còn có những đặc trưng riêng phản ánh bản chất bên trong theo qui
luật của hệ thuật ngữ nói chung và lĩnh vực hoạt động của mình nói riêng.
Về mặt hình thức ngôn ngữ, thuật ngữ quân sự có cấu trúc là từ hoặc
cụm từ. Đó là cái biểu đạt của thuật ngữ quân sự. Trong tiếng Việt, xét về cấu
tạo, tức là xét về số lượng âm tiết tạo nên từ thì từ tiếng Việt chia thành hai
loại, từ đơn và từ phức, từ phức lại chia thành từ láy và từ ghép. Thuật ngữ

quân sự cũng chia thành từ đơn, như bom, mìn, tăng, đạn, pháo, cối, súng,
mũ, hướng…. và từ phức như binh chủng, đội hình, chiến dịch, bom bi, mìn
chống tăng, bom ba càng, nhưng có điểm đặc biệt là trong thành phần của
thuật ngữ chỉ tồn tại các từ đơn, từ ghép và cụm từ… Các thuật ngữ quân sự
22

là cụm từ là những thuật ngữ có cấu tạo bằng cách kết hợp nhiều từ với
nhau, ví dụ: công tác quân sự địa phương, công tác tham mưu hậu cần,
ba mũi giáp công phòng ngự, chính sách hậu phương quân đội…

Về mặt

nội dung tức là cái được biểu đạt, thuật ngữ quân sự biểu đạt khái niệm quân sự và
gọi tên đối tượng quân sự. Khái niệm quân sự là tổng thể các đặc trưng của đối
tượng quân sự được phản ánh trong nhận thức của con người. Khái niệm quân sự
là mặt biểu niệm của thuật ngữ quân sự, chẳng hạn, thuật ngữ vũ khí phản ánh đặc
trưng của nhiều đối tượng quân sự: phương tiện kĩ thuật quân sự dùng để tiêu diệt
sinh lực địch, phá hủy các phương tiện vật chất kĩ thuật của đối phương, tức là
phương tiện để gây hại cho địch và bảo vệ mình. Đặc trưng ấy là nét chung của
nhiều đối tượng quân sự trong quân đội.
Từ những điều trình bày ở trên, có thể nhận thấy thuật ngữ quân sự cũng
như các loại tín hiệu ngôn ngữ khác có mặt biểu đạt (từ và cụm từ gọi tên sự vật
hiện tượng quân sự) là hình thức ngôn ngữ và mặt được biểu đạt là nội dung khái
niệm. Các mặt này có quan hệ chặt chẽ với nhau để tạo nên bản chất bên trong của
thuật ngữ quân sự. Cụ thể, từ và cụm từ gọi tên sự vật hiện tượng quân sự. Sự vật,
hiện tượng quân sự được phản ánh bằng khái niệm quân sự.
Trường hợp lí tưởng nhất đối với một thuật ngữ quân sự là các mặt
hình thức ngôn ngữ – khái niệm – đối tượng có mối quan hệ tương ứng mộtmột và thường cũng chỉ biểu thị một khái niệm quân sự mà thôi. Trong thực tế
cũng có những trường hợp một từ hoặc một cụm từ gọi tên nhiều đối tượng

quân sự, đó là trường hợp thuật ngữ quân sự đồng âm, như: tăng, địa bàn, ý
định, nhiệm vụ… Cũng có những trường hợp một khái niệm được biểu thị
bằng nhiều thuật ngữ quân sự, đó là trường hợp thuật ngữ quân sự đồng
nghĩa. Ví dụ: một khu vực địa hình được cấu trúc, thiết kế phù hợp với yêu
cầu kĩ thuật và chiến thuật trong huấn luyện bộ đội, được biểu thị bằng hai tên
gọi bãi tập – thao trường. Lại có trường hợp một thuật ngữ biểu thị nhiều khái
niệm, đó là trường hợp thuật ngữ đa nghĩa: bắn, là quá trình tạo ra phát bắn
23

bao gồm các thao tác nạp đạn – ngắm – bóp cò; là khẩu lệnh để chỉ huy người
bắn thực hiện động tác bóp cò – đạp cò – giật cò – bấm nút….
Căn cứ vào những đặc trưng hình thức và nội dung ngữ nghĩa, luận
án đồng tình với định nghĩa: “Thuật ngữ quân sự là bộ phận từ vựng
chuyên biệt, bao gồm toàn bộ những đơn vị có tư cách thuật ngữ, được
dùng ổn định trong lĩnh vực chuyên môn quân sự, nhằm biểu thị chính xác
các khái niệm hoặc sự vật, hiện tượng thuộc lĩnh vực hoạt động quân sự
hoặc chuyên môn quân sự” [45,15].
b. Phân biệt thuật ngữ quân sự với những đơn vị có liên quan đến
thuật ngữ quân sự
– Phân biệt thuật ngữ quân sự với từ ngữ thông thường
Sự khác biệt giữa thuật ngữ quân sự với từ ngữ thông thường được biểu
thị ở nội dung biểu đạt và hình thức ngôn ngữ. Xét về nội dung biểu đạt, thuật
ngữ quân sự phân biệt với từ ngữ thông thường ở mặt biểu vật và biểu niệm.
Sự phân biệt này thể hiện ở nhiều khía cạnh. Thứ nhất, thuật ngữ quân sự
phân biệt với từ thường ở cả mặt biểu vật lẫn biểu niệm. Nếu như, từ ngữ
thông thường được dùng trong nhiều lĩnh vực, theo nhận thức chung của mọi
người trong xã hội thì thuật ngữ quân sự là những từ ngữ được dùng để chỉ
những sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực quân sự và chỉ được nhận thức từ góc
độ quân sự. Có thể nói đây là những thuật ngữ thuần túy về mặt quân sự,

không có trong từ ngữ thông thường, như: pháo mặt đất, máy bay tiêm kích,
tiến công trong hành tiến, cối cá nhân, chiến đấu tao ngộ, đánh giáp lá cà,
thủ đoạn tác chiến, bắn trong hành tiến… Thứ hai, thuật ngữ quân sự khác từ
ngữ thông thường về mặt biểu niệm nhưng lại đồng nhất ở mặt biểu vật. Ví
dụ: biển, vũng, vịnh, ao, hồ, đồng bằng, miền núi, chiến tranh, … Xét về biểu
vật, các từ này khi là từ thông thường và khi là thuật ngữ đều gọi tên những
sự vật hiện tượng như nhau, nhưng xét về biểu niệm, nếu là từ ngữ thông
thường, từ đồng bằng chẳng hạn: là nơi đất thấp, bằng phẳng, thường ở lưu
24

vực những con sông lớn, nhưng nếu là thuật ngữ nó lại biểu thị khái niệm: là
địa hình trống trải, mang những thuộc tính chiến thuật nhất định như việc
ngụy trang, triển khai đội hình, sử dụng lực lượng, phương tiện, kèm theo đó
là các hình thức, thủ đoạn tác chiến cho phù hợp với dặc điểm địa hình. Từ
phản công, khi là từ ngữ thông thường, nó biểu thị ý nghĩa hành động đánh
lại kẻ tấn công mình, khi là thuật ngữ quân sự, nó có nội hàm khái niệm: là
một dạng tác chiến đặc biệt của tiến công, được tiến hành ở qui mô chiến
dich và chiến lược.
Tuy vậy giữa khái niệm quân sự và khái niệm của từ có quan hệ mật
thiết với nhau. Bởi ý nghĩa của từ thông thường luôn được khái niệm thuật
ngữ chuyên môn bổ sung, làm phong phú thêm sắc thái ý nghĩa. Ngược lại,
các khái niệm quân sự bao giờ cũng được phát triển dựa trên cơ sở ý nghĩa
ban đầu của từ ngữ thông thường. Chẳng hạn, khái niệm vũ khí, chiến tranh,
quân đội ít nhiều mang một số nét nghĩa của từ ngữ thông thường. Vũ khí
được phản ánh trong nhận thức của nhiều người là tất cả những phương tiện,
những dụng cụ được dùng để tiêu diệt, sát thương kẻ thù và giữ lợi thế cho
mình; quân đội được nhận thức là lực lượng vũ trang của một giai cấp, của
một nhà nước nhất định, có nhiệm vụ đấu tranh vũ trang để bảo vệ lợi ích của
giai cấp, của nhà nước mình.

Ngoài ra, sự khác biệt giữa từ ngữ thông thường và thuật ngữ còn thể
hiện ở chỗ từ ngữ thông thường được sử dụng trong nhiều phong cách, nhiều
sắc thái biểu cảm khác nhau, như thân mật, xã giao, yêu thương, căm giận…
Trong khi đó, thuật ngữ quân sự chỉ sử dụng trong lĩnh vực quân sự, thường
không mang những sắc thái ý nghĩa đó.
Về hình thức ngôn ngữ, thuật ngữ quân sự được phân biệt với từ ngữ
thông thường ở những điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, về đặc điểm từ loại. Thành phần của thuật ngữ quân sự chủ
yếu được tạo nên bởi danh từ, cụm danh từ như: vũ khí, khí tài, vũ khí chống
25

và những mặt của đời sống xã hội nói chung. 1.2. Hiện nay, Việt Nam vẫn đang phải đồng thời triển khai hai nhiệm vụxây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tình hình quốc tế đang tạo ra nhiều thời cơ cũng nhưnhiều thử thách với sự tăng trưởng kinh tế tài chính quốc gia. Chúng ta vừa phải thực hiệnnhiệm vụ tăng trưởng kinh tế tài chính vừa phải đương đầu với thủ đoạn “ Diễn biến độc lập ” vàBạo loạn lật đổ của những thế lực thù địch trên quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu và điều tra thuật ngữquân sự nhằm mục đích góp thêm phần chỉnh lí, sử dụng chúng một cách khoa học trong thựctiễn quân sự, nhất là trong công tác làm việc chỉ huy, chỉ huy ở cấp trung đoàn, sư đoàn làviệc làm mang lại ý nghĩa thiết thực. 1.3. Trong hàng loạt yếu tố đặt ra khi nghiên cứu và điều tra thuật ngữ quân sự, chúng tôi nhận thấy việc update những thành tựu khoa học trong thực tiễnquân sự vào nội hàm khái niệm thuật ngữ và cách sử dụng thuật ngữ theonhững hình thức ngôn từ và ngữ nghĩa nhất định đang được những nhà nghiêncứu chăm sóc. Bởi lúc bấy giờ, bên cạnh những thuật ngữ đúng chuẩn, ngắn gọn, khoa học quân sự vẫn còn sống sót những cách sử dụng thuật ngữ quá dài dòng, nhiều hình thức ngôn từ tương tự chỉ bộc lộ một khái niệm, sử dụngcác thuật ngữ có hư từ và không có hư từ chưa thực sự hài hòa và hợp lý, sử dụng thuậtngữ trong dịch thuật còn thiếu tính thống nhất … Ngoài ra, việc nghiên cứulý luận về thuật ngữ quân sự còn chưa nhiều. Ngoài một vài tập bài giảng, một vài cuốn từ điển và một luận án tiến sỹ nghiên cứu và điều tra về cấu trúc của hệthuật ngữ quân sự thì hầu hết chưa có khu công trình nào điều tra và nghiên cứu hệthống, sâu xa thực chất về lớp từ vựng đặc trưng này. Vì vậy, rất cầnthiết phải xem xét những mặt của thuật ngữ quân sự như cấu trúc, định danhvà cách sử dụng chúng nhằm mục đích phân phối cơ sở khoa học cho công tác làm việc chỉnhlý, sử dụng và biên soạn từ điển. Với những nguyên do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “ Thuật ngữ quân sự trongtiếng Việt trên bình diện cấu trúc và định danh ”. Chúng tôi hy vọng, tác dụng nghiêncứu của đề tài góp thêm phần bổ trợ vào những phần khuyết thiếu trong mạng lưới hệ thống lýluận về thuật ngữ quân sự tiếng Việt và nhìn nhận khách quan vai trò quan trọngcủa chúng so với trình độ quân sự trong thực tiễn cũng như sự phát triểnchung của ngôn từ. Đồng thời, luận án cũng bước đầu đề xuất kiến nghị những cách sửdụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt tương thích với hoạt động giải trí hành chức. 2. Đối tượng và khoanh vùng phạm vi nghiên cứu2. 1. Đối tượng nghiên cứuĐối tượng điều tra và nghiên cứu của luận án là 3216 thuật ngữ quân sự tiếng Việtđược thống kê từ những cuốn từ điển và 1 số ít tài liệu về khoa học quân sự, mộtsố hồi kí của những tướng lĩnh quân sự. 2.2. Phạm vi nghiên cứuPhạm vi điều tra và nghiên cứu là hàng loạt những đơn vị chức năng của hệ thuật ngữ quân sựtiếng Việt văn minh được số lượng giới hạn về mặt thời hạn từ năm 1930 đến nay : thờiđiểm tiếng Việt trong quá trình hoàn thành xong một quy trình hoạt động một cáchnhanh chóng để hoàn thành xong và hiện đại hóa ; những trào lưu đấu tranh giảiphóng dân tộc bản địa ngày càng ngả theo khuynh hướng vô sản ; những hoạt động quân sự vũtrang cách mạng tập trung chuyên sâu dưới sự chỉ huy của Đảng cộng sản. Về nội dung, luận án xác lập thuật ngữ quân sự tân tiến nói trên đượcnghiên cứu hầu hết trên những đặc thù đơn cử, đó là : – Đặc điểm cấu trúc của thuật ngữ quân sự tiếng Việt – Đặc điểm định danh của thuật ngữ quân sự tiếng Việt – Cách sử dụng của thuật ngữ quân sự tiếng Việt3. Mục đích và trách nhiệm nghiên cứu3. 1. Mục đích nghiên cứuMục đích điều tra và nghiên cứu của luận án là điều tra và nghiên cứu, miêu tả những đặc điểmcơ bản của thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt văn minh về mặt cấu trúc từ, về môhình định danh và việc sử dụng chúng trong trong thực tiễn ngôn từ, nhất là trong lĩnhvực trình độ quân sự và tiếp xúc quân sự. Đồng thời củng cố và phát triểncơ sở lí luận, thực tiễn nhằm mục đích góp thêm phần triển khai xong và sử dụng hệ thuật ngữ quânsự trong tiếng Việt văn minh tương thích với tiếp xúc trình độ quân sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu và điều tra – Tổng quan tình hình nghiên cứu và điều tra thuật ngữ trên quốc tế, ở Việt Namvà thuật ngữ quân sự tiếng Việt ở Việt Nam. – Trình bày 1 số ít cơ sở lí thuyết tương quan đến luận án là lí thuyết cấutạo từ, lí thuyết định danh và những khái niệm cơ bản về thuật ngữ, thuật ngữquân sự tiếng Việt. – Khảo sát, miêu tả và nghiên cứu và phân tích mạng lưới hệ thống thuật ngữ quân sự tiếng Việthiện đại trên những mặt : + Đặc điểm cấu trúc + Đặc điểm định danh + Sử dụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt4. Nguồn ngữ liệu và giải pháp nghiên cứu4. 1. Nguồn ngữ liệuNgữ liệu điều tra và nghiên cứu là những đơn vị chức năng thuật ngữ quân sự tiếng Việt hiện đạiđược tích lũy từ những nguồn sau đây : – Từ những cuốn từ điển thuật ngữ quân sự tiếng Việt, từ điển Bách khoaquân sự Việt Nam, những giáo trình tiếng Việt quân sự và giáo trình thuật ngữquân sự tiếng Việt dạy cho học viên quân sự quốc tế. – Từ những tài liệu văn bản trong nghành trình độ quân sự như : cácsách về nghệ thuật và thẩm mỹ quân sự Việt Nam, tài liệu về thuật ngữ quân sự v.v. – Từ những sách như hồi kí cuộc chiến tranh của những tướng lĩnh quân đội nhândân Việt Nam v.v. 4.2. Phương pháp nghiên cứuLuận án sử dụng những thủ pháp và chiêu thức điều tra và nghiên cứu hầu hết sau : 1 ) Thủ pháp thống kêThủ pháp thống kê được sử dụng trong luận án nhằm mục đích chỉ ra số lượngthuật ngữ, tỉ lệ phần trăm thuật ngữ chia theo nguồn gốc, theo quan hệ, theocấu tạo, theo quy mô định danh. Số lượng Phần Trăm được trình diễn dướidạng những bảng biểu. Những số lượng thống kê trong đề tài là cơ sở khoa học đểrút ra những vấn đề của thuật ngữ quân sự tiếng Việt về cấu trúc, về đặcđiểm định danh. 2 ) Phương pháp nghiên cứu và phân tích thành tố trực tiếpPhương pháp nghiên cứu và phân tích thành tố trực tiếp được sử dụng để chỉ ra cácthành tố trực tiếp cấu trúc nên thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Trên cơ sở cácthành tố cấu trúc, người nghiên cứu và điều tra chỉ ra được những quy mô phổ quát củathuật ngữ quân sự xét về mặt cấu trúc. Đồng thời giải pháp này cũng đượcáp dụng để chỉ ra những quy mô định danh thuật ngữ nhờ sự phối hợp của yếu tốchỉ loại và yếu tố chỉ biệt loại. 3 ) Phương pháp miêu tảPhương pháp này được vận dụng để chỉ ra đặc thù ngữ pháp và đặcđiểm định danh ngữ nghĩa của thuật ngữ quân sự tiếng Việt. 4 ) Phương pháp so sánh – đối chiếuPhương pháp này được vận dụng để tìm ra sự tương đương và khác biệtcủa thuật ngữ quân sự tiếng Việt và những thuật ngữ quân sự quốc tế đượclấy làm đối tượng người dùng so sánh như tiếng Anh, tiếng Nga. Trên cơ sở đó góp phầnvào việc sử dụng thuật ngữ quân sự tiếng Việt khoa học, đúng chuẩn trongphiên dịch, biên dịch. Phương pháp này được dùng khi nghiên cứu và phân tích ngữ liệutrong phần dịch thuật thuật ngữ quân sự tiếng Việt ở chương 4.5. Đóng góp của đề tàiKết quả nghiên cứu và điều tra của đề tài làm sáng tỏ lí thuyết từ vựng trên cácmặt cấu trúc, định danh và sử dụng trên cứ liệu của một lớp từ vựngchuyên biệt trong tiếng Việt tân tiến vốn chưa được nhiều nhà nghiên cứuquan tâm quan tâm là hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Kết quả của đề tài cũng góp thêm phần bổ trợ những yếu tố nghiên cứulý thuyết về thuật ngữ học và chuẩn hóa thuật ngữ. Luận án làm điển hình nổi bật bức tranh toàn cảnh về hệ thuật ngữ quân sự tronghệ thống và trong hoạt động giải trí của tiếng Việt tân tiến. Đề nghị những nguyên tắccó tính xu thế trong sử dụng thuật ngữ quân sự, trong giảng dạy tiếngViệt quân sự, tiếp xúc, phiên – biên dịch quân sự, biên soạn giáo trình tài liệuquân sự và biên soạn từ điển thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Đồng thời phân phối nguồn ngữ liệu cho nghiên cứu và điều tra thuật ngữ ở ViệtNam và trên quốc tế. 6. Cấu trúc của luận ánNgoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương : Chương 1 : Tổng quan tình hình nghiên cứu và điều tra và cơ sở lí luậnChương 2 : Cấu tạo thuật ngữ quân sự tiếng ViệtChương 3 : Định danh thuật ngữ quân sự tiếng ViệtChương 4 : Sử dụng thuật ngữ quân sự tiếng ViệtChương 1T ỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN1. 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu1. 1.1. Tình hình điều tra và nghiên cứu thuật ngữ trên thế giớiNghiên cứu thuật ngữ trên quốc tế được khởi đầu gắn liền với tên tuổicủa nhà nghiên cứu sinh học Carlvon Linne – 1736 ( người Thụy Điển ) và cácnhà điều tra và nghiên cứu hóa học A.L. Lavoisier – 1743, Louis-Bernard GuytonMorveau – 1737, Marcellin Berthelot – 1827, A.F.de Fourcoy – 1755 ( ngườiPháp ). Đó là những nhà nghiên cứu đặt nền móng cho khoa học sinh học, hóahọc và cũng là những người có công lớn trong việc chuẩn hóa danh pháp thựcvật học, động vật học và hóa học. Kể từ đó trào lưu điều tra và nghiên cứu thuật ngữ được thực thi ở hàng loạtquốc gia trên quốc tế và những vương quốc có hệ thuật ngữ tăng trưởng nhất, có thểkể đến Nga, Anh, Pháp, Đức, Italia … Ở những nước này, thuật ngữ khoa họcđược điều tra và nghiên cứu từ nhiều góc nhìn, trước hết và tập trung chuyên sâu hơn cả là vấn đềhệ thống hóa thuật ngữ trong biên soạn những loại từ điển thuật ngữ chuyênngành, gồm có từ điển lý giải thuật ngữ ( từ điển bách khoa thư ) và từđiển so sánh ( từ điển song ngữ – đa ngữ ), tuy nhiên, “ cũng chỉ bao trùmđược gần 300 nghành đối tượng người tiêu dùng – trình độ, đồng thời ở mỗi ngôn ngữriêng biệt thì mỗi nghành đã được thiết kế xây dựng thuật ngữ không nhiều nhưthế ” [ 68,17 ]. Tiếp đến là những nghiên cứu và điều tra mang tính học thuật chuyênsâu như yếu tố khái niệm thuật ngữ, công dụng của thuật ngữ, yếu tố cấutạo ngữ nghĩa, ngữ pháp của thuật ngữ v.v … Tuy vậy, phải đến đầu thế kỉ XX, việc điều tra và nghiên cứu thuật ngữ mới mangtính sâu xa và có ý nghĩa to lớn so với sự tăng trưởng của thuật ngữ họcnói riêng và ngôn ngữ học nói chung. Đi đầu trong nghành nghề dịch vụ điều tra và nghiên cứu thuậtngữ là những nhà khoa học Liên Xô cũ, những nhà khoa học Áo, Tiệp Khắc, Canada. Thành tựu điều tra và nghiên cứu của những nhà khoa học này đã mang đến nhữngdấu mốc quan trong làm biến hóa diện mạo của ngành khoa học về thuật ngữ. Về cơ bản, hoàn toàn có thể kể ra đây ba phe phái nghiên cứu và điều tra thuật ngữ là : Trườngphái điều tra và nghiên cứu thuật ngữ của Áo, Trường phái nghiên cứu và điều tra thuật ngữ củaTiệp Khắc và Trường phái điều tra và nghiên cứu thuật ngữ của Liên xô. 1.1.1. 1. Trường phái nghiên cứu và điều tra thuật ngữ ÁoNhững tư tưởng lớn về thuật ngữ của phe phái này gắn với tên tuổicủa nhà nghiên cứu E. Wuster ( 1898 – 1977 ). Ông là người đặt nền móng chongành điều tra và nghiên cứu thuật ngữ ở Áo và cũng là người có anhe hưởng quyết địnhđến những vấn đề khoa học về thuật ngữ trên quốc gia này. Ba luận điểmkhoa học có tầm vóc lớn nhất về thuật ngữ của ông được trình diễn trong cuốnLí luận chung về thuật ngữ ( 1931 ) đã mở ra những đường hướng nghiên cứurộng mở cho ngành điều tra và nghiên cứu lí luận và thực tiễn cảu thuật ngữ sau này, đólà : xác lập giải pháp nghiên cứu và điều tra thuật ngữ ; chiêu thức giải quyết và xử lý dữ liệuthuật ngữ ; xác lập tên gọi của mạng lưới hệ thống khái niệm, đối tượng người dùng trong lĩnh vựckĩ thuật và sau cuối là một số nguyên tắc thiết kế xây dựng thuật ngữ. Mục tiêu quan trọng nhất của phe phái điều tra và nghiên cứu thuật ngữ Áo làxác định tên gọi khái niệm thuật ngữ nhằm mục đích chuẩn hóa kiến thiết xây dựng thuật ngữ. 1.1.1. 2. Trường phái điều tra và nghiên cứu thuật ngữ Tiệp KhắcCác nhà khoa học Tiệp Khắc không điều tra và nghiên cứu thuật ngữ theo xuhướng quốc tế hóa như những nhà khoa học Liên Xô mà thiết kế xây dựng hệ thuật ngữSlavơ trong sự trái chiều với ngôn từ Đức và Hy Lạp. “ Nếu như ở Liên Xô, những nhà khoa học thực thi theo hướng quốc tế hóa những thuật ngữ, thì ở TiệpKhắc lại hướng mọi hoạt động giải trí cơ bản vào việc thiết kế xây dựng những yếu tố tương đươngcủa vương quốc, Slavơ, trái chiều với những thuật ngữ Đức và Hy Lạp – Latin ” [ 68,16 ]. Người khởi xướng của phe phái này là L. Drodz. Từ cách tiếp cậnnghiên cứu ngôn từ theo hướng công dụng luận của phe phái Praha, ông chútrọng điều tra và nghiên cứu thuật ngữ theo hướng cấu trúc tính năng và công dụng của thuậtngữ là tạo nên nền tảng của văn bản khoa học. Công việc điều tra và nghiên cứu cấu trúcchức năng của thuật ngữ ship hàng đa phần cho việc làm chuẩn hóa thuật ngữ nóiriêng và chuẩn hóa ngôn từ nói chung. 1.1.1. 3. Trường phái nghiên cứu và điều tra thuật ngữ Liên XôTừ những năm 1970 đến những năm1990, điều tra và nghiên cứu thuật ngữ đã trởthành một chuyên ngành khoa học ngôn từ độc lập, có đối tượng người tiêu dùng, mục đíchnghiên cứu riêng. Thành tựu to lớn nhất tập trung chuyên sâu ở những điều tra và nghiên cứu của cáctác giả Liên Xô cũ. Hàng loạt từ điển bách khoa thuật ngữ chuyên ngành, hàng trăm luận án tiến sỹ sinh ra trong khoảng chừng thời hạn này lưu lại bề dàynghiên cứu thuật ngữ với tư cách một chuyên ngành ngôn ngữ học độc lập. Nói như Vũ Quang Hào : “ về điều này hoàn toàn có thể phải viết hẳn một cuốn sách ” [ 31, 9 ]. Tiêu biểu nhất là những khu công trình về mặt lý luận ngôn từ của A.A.Refomatsky, N.P. Cudơkin, G.O Vinokur, V.V. Vinôgrađôp … Các tác giả LiênXô này thường tập trung chuyên sâu quan tâm đa phần vào tính năng của thuật ngữ, quan hệgiữa thuật ngữ với khái niệm … Tình hình điều tra và nghiên cứu thuật ngữ ở Liên Xô được tổng kết trong côngtrình “ Thuật ngữ học – Những yếu tố lí luận và thực tiễn ” [ 55 ] được chia làmbốn thời kì : thời kì sẵn sàng chuẩn bị ; thời kì thứ nhất ; thời kì thứ hai ; thời kì thứ ba. Qua những thời kì tăng trưởng, những nhà nghiên cứu thuật ngữ Liên Xô quan tâmchủ yếu đến những yếu tố : phương pháp phát minh sáng tạo thuật ngữ, nguyên tắc xây dựngthuật ngữ, chỉnh lí thuật ngữ. Hiện nay, khoa học thuật ngữ Liên Xô đã pháttriển lên tầm cao mới theo hướng tri nhận luận. Nhìn chung, tình hình điều tra và nghiên cứu thuật ngữ của những nước trên thế giớiđều gắn liền với những yếu tố phát sinh trong thực tiễn sử dụng ngôn từ trêncác nghành trình độ khoa học của đời sống và trình độ chuyên mônhoá trong sự tăng trưởng của ngành ngôn ngữ học ở mỗi nước. Mức độ đadạng và nâng cao của mạng lưới hệ thống những loại từ điển thuật ngữ chuyênngành ; mức độ phong phú và đa dạng và thâm thúy về mặt lý luận thuật ngữ học phụthuộc vào nhiều yếu tố trong sự tăng trưởng của nền ngôn ngữ học mỗinước nhưng trước hết, điều đó bắt nguồn từ chính bản thân những ngôn ngữvà sự tăng trưởng của những ngành khoa học. 101.1.2. Tình hình điều tra và nghiên cứu thuật ngữ ở Việt NamNghiên cứu thuật ngữ được đặt ra một cách có mạng lưới hệ thống ở Việt Nam từđầu thế kỉ XX. Người mở màn cho công cuộc điều tra và nghiên cứu về thuật ngữ làDương Quảng Hàm. Ông ý niệm tiếng An Nam không hề mượn tiếngPháp mà nên mượn tiếng Hán để dịch thuật thuật ngữ “ về triết học, khoa học, kĩ nghệ, Tàu dịch đúng và gần đủ, tiếng Tàu đồng chủng với tiếng ta ” [ 68, 23 ]. Đào Duy Anh trong Từ điển Hán Việt đã trình làng hàng loạt thuật ngữHán – Việt ở nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau. Tuy nhiên, người cócông lao tiên phong trong việc sưu tầm, sắp xếp thuật ngữ thành một mạng lưới hệ thống làHoàng Xuân Hãn, tác giả khu công trình “ Danh từ khoa học ”. Đây là công trìnhđầu tiên ghi chép một cách có mạng lưới hệ thống những thuật ngữ về toán học, hóa học, vật lí học … trong tiếng Việt bằng chữ quốc ngữ. Cuốn sách cũng là bảng tổngkết phương pháp kiến thiết xây dựng thuật ngữ dựa vào từ thường thì, mượn tiếng Hánvà phiên âm từ ngôn từ Ấn – Âu. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể nói, chỉ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhấtlà sau Kháng chiến chống Pháp thắng lợi ( 1954 ), cùng với sự tăng trưởng củatiếng Việt và ngành Việt ngữ học, công tác làm việc nghiên cứu và điều tra thuật ngữ chuyênngành mới thật sự được chú trọng và đã đạt được những bước tiến mới trên cả haigóc độ điều tra và nghiên cứu lý luận về thuật ngữ và kiến thiết xây dựng những hệ thuật ngữ cũng như biênsoạn từ điển thuật ngữ. Về mặt nghiên cứu và điều tra biên soạn những loại từ điển thuật ngữ chuyên ngành, thànhtựu thu được gồm có những loại từ điển lý giải thuật ngữ tiếng Việt ( từ điển báchkhoa chuyên ngành ) và từ điển so sánh thuật ngữ ( song ngữ – đa ngữ ) … Về mặt điều tra và nghiên cứu lý luận, cuối tháng 12 năm 1964, Ủy ban Khoa họcnhà nước đã tổ chức triển khai một Hội nghị khoa học chuyên về thuật ngữ khoa họctiếng Việt. Hội nghị đã bàn về Vấn đề kiến thiết xây dựng thuật ngữ khoa học và cử ramột Ban chuyên nghiên cứu và điều tra về thuật ngữ gồm có những nhà khoa học như : TạQuang Bửu, Nguyễn Thạc Cát, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Văn Chiển, Ngụy11Như Kon Tum, Lưu Vân Lăng, Trương Công Quyền … Đến tháng 5 năm 1965, Ủy ban Khoa học nhà nước lại triệu tập Hội nghị và trải qua bản qui tắc vềxây dựng thuật ngữ tiếng Việt. Tháng 6 năm 1965, bản qui tắc về thuật ngữtiếng Việt được công bố trong thời điểm tạm thời vận dụng trong toàn bộ những ngành khoa học. Đây là một bước tiến mới tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho công tác làm việc thiết kế xây dựng thuậtngữ cũng như công tác làm việc nghiên cứu và điều tra thuật ngữ tăng trưởng. Kết quả là “ qua hơnmười năm vận dụng bản nguyên tắc đó, những nhà thuật ngữ học Việt Nam đãhoàn thành được một khối lượng việc làm đáng kể. Hơn 50 cuốn thuật ngữđối chiếu đã được biên soạn. Trong thực trạng chính trị lúc bấy giờ, rõ ràngphải nhiệt tình lắm mới hoàn toàn có thể làm được những việc như vậy ” [ 57, 93 ]. Tiếp đến là hàng loạt những khu công trình nghiên cứu và điều tra về thuật ngữ của cáctác giả Việt ngữ học dưới góc nhìn từ bản thân nội tại tiếng Việt. Hầu hết cácnhà nghiên cứu và điều tra đều mặc nhiên thừa nhận thuật ngữ là một bộ phận hữu cơ củavốn từ vựng tiếng Việt trong ngôn ngữ văn hóa toàn dân. Đỗ Hữu Châu [ 7 ] xem thuật ngữ tiếng Việt là mạng lưới hệ thống từ ngữ đơnphong cách và sự tăng trưởng của thuật ngữ gắn liền với sự tăng trưởng kinh tế tài chính, chính trị, xã hội của Việt Nam. Đó là mạng lưới hệ thống từ ngữ có tính cách “ bảo thủ ” về nghĩa, mỗi từ như thể một “ cái nhãn ” [ 7, 222 ] dán lên sự vật, hiện tượngtrong quốc tế khách quan. Các từ này xét về mặt cấu trúc, ngữ nghĩa và nguồngốc, ngoài những đặc thù loại biệt ra đều không nằm ngoài qui luật vậnđộng tăng trưởng chung của mạng lưới hệ thống từ vựng tiếng Việt, nhưng xét ở khoanh vùng phạm vi sửdụng thì chúng vẫn là những từ có ngoại diên hẹp và nội hàm khá trừu tượng. Các tác giả Nguyễn Đức Tồn [ 68 ], Hà Quang Năng [ 57 ], Lê Quang Thiêm [ 66 ] đều cho rằng năm 1930 là một cái mốc lưu lại sự Open của thuật ngữkhoa học tiếng Việt, khởi đầu đa phần là thuật ngữ khoa học xã hội ; đồng thời quantâm đến yếu tố dịch và đặt thuật ngữ tiếng Việt theo hướng thuận tiện, ngắn gọn, dễhiểu. 12T ác giả “ Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì 1858 – 1945 ”, Lê QuangThiêm [ 66 ], từ toàn cảnh xã hội ngôn từ của từng thời kì đã chỉ ra những biểuhiện từ vựng ở lát cắt đồng đại, lịch đại và vai trò của chúng với văn hóa truyền thống, kinhtế chính trị của quốc gia. Giai đoạn cuối thế kỉ XIX, lớp thuật ngữ thuần Việtbằng chữ quốc ngữ phần nhiều không xuất hiện trong những thể loại văn bản. Tuynhiên, do sự ảnh hưởng tác động của lịch sử vẻ vang chính trị, xã hội thời phong kiến nên hệthống thuật ngữ Hán – Việt như vua, quan, triều đình, chiếu, biểu, bộ binh, bộhình, bộ lại, tổng trấn, thừa tướng … cũng Open khá nhiều. Những thuậtngữ chỉ chính sách chính trị – xã hội thực dân cũng khởi đầu Open như đô đốc, thống sứ, toàn quyền, bảo lãnh, thuộc địa … Đến quy trình tiến độ từ 1900 – 1930, mộtlớp từ ngữ chính trị xã hội mới khởi đầu hình thành, được dùng với tính chấtchuyên môn, chuyên dùng như thuật ngữ. Đây là một bộ phận từ vựng quantrọng mở màn cho sự Open của những thuật ngữ khoa học xã hội về lịch sử vẻ vang, văn học, giáo dục … Số lượng những thuật ngữ này tăng trưởng nhờ con đường vaymượn gián tiếp hoặc trực tiếp, nâng cấp cải tiến, phát minh sáng tạo mới. Đến tiến trình 1930 1945 là thời kỳ hoàn thành xong và hiện đại hóa tiếng Việt, thời kỳ mà thành tựuphát triển của tiếng Việt trong 15 năm hoàn toàn có thể sánh ngang với hàng trăm nămcủa người thì thuật ngữ khoa học xã hội và nhân văn, tiếp đó là sự xuất hiệncủa mạng lưới hệ thống thuật ngữ khoa học tự nhiên, công nghệ tiên tiến, thương mại … cũng dầnđược tăng trưởng ngày càng can đảm và mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đây cũng làthời kỳ nở rộ thuật ngữ của những chuyên ngành khoa học và kỹ thuật. Hà Quang Năng, [ 57 ] cho rằng lịch sử vẻ vang tiếng Việt tăng trưởng qua bốn giaiđoạn : Sự Open của người Pháp và sự sinh ra của chữ quốc ngữ, sau cáchmạng tháng Tám năm 1945, những năm 60 của thế kỉ XX, sau năm 1985. Những dấu mốc này đã ghi dấu ấn can đảm và mạnh mẽ cho sự tăng trưởng của tiếng Việtcũng như của những hệ thuật ngữ trong tiếng Việt. Trong khu công trình này, tác giả13đã xem xét thuật ngữ trên cơ sở thống kê, nghiên cứu và phân tích ngữ liệu và chỉ ra cácphương thức kiến thiết xây dựng và chuẩn hóa thuật ngữ tiếng Việt. Nguyễn Đức Tồn trong chuyên khảo Thuật ngữ học tiếng Việt hiệnđại [ 68 ], đã chỉ ra tiến trình điều tra và nghiên cứu lịch sử dân tộc thuật ngữ trên quốc tế cũngnhư ở Việt Nam, yếu tố điều tra và nghiên cứu khái niệm và những tiêu chuẩn của thuậtngữ. Đồng thời, tác giả vận dụng triết lý điển mẫu vào việc chuẩn hóa thuậtngữ tiếng Việt. Công trình của tác giả là một bảng tổng kết thành tựu nghiêncứu thuật ngữ trên quốc tế, ở Việt Nam và một số hệ thuật ngữ chuyên ngành. Có thể nói, những nghiên cứu và phân tích, lý giải về thuật ngữ tiếng Việt của công trìnhnghiêm túc này còn mang tính thời sự, tiềm ẩn những nét điển hình nổi bật, có ýnghĩa khuynh hướng về học thuật trong điều tra và nghiên cứu lý luận thuật ngữ cũng nhưtrong việc hệ thống hóa những hệ thuật ngữ chuyên ngành của ngôn từ. Thànhtựu của cuốn sách là những gợi ý vô cùng thiết thực với việc tiến hành nộidung luận án ở nghành nghề dịch vụ thuật ngữ quân sự. Nghiên cứu thuật ngữ còn được đề cập đến trong nhiều luận án tiến sĩnhư : Thuật ngữ khoa học kĩ thuật thiết kế xây dựng trong tiếng Việt [ 40 ], Đặc điểm cấutạo thuật ngữ thương mại Việt – Nhật [ 29 ], So sánh đặc thù cấu trúc hình thức vàngữ nghĩa của thuật ngữ kinh tế tài chính – kế toán – ngân hàng nhà nước trong tiếng Anh vàtiếng Việt [ 70 ], Khảo sát thuật ngữ y học tiếng Anh và cách phiên chuyển sang tiếngViệt [ 54 ], Nghiên cứu những phương pháp cấu trúc hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên tiếngViệt ( trên tư liệu thuật ngữ Toán-Cơ-Tin học-Vật lý ) [ 34 ], Khảo sát hệ thuật ngữ tinhọc-viễn thông tiếng Việt [ 64 ]. Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa hệ thuật ngữ khoahọc hình sự tiếng Việt [ 35 ], Đối chiếu thuật ngữ âm nhạc Việt – Anh [ 16 ], … Trên cơ sở nghiên cứu và điều tra thuật ngữ ở một chuyên ngành khoa học, nhữngcông trình trên đã làm rõ đặc thù cấu trúc và những phương pháp định danhthuật ngữ thuộc trình độ hẹp. Kết quả của những khu công trình trên là sự gợiý cho chúng tôi trong điều tra và nghiên cứu thuật ngữ với tư cách là lớp từ chuyên mônkhoa học mang tính đặc trưng. 141.1.3. Tình hình điều tra và nghiên cứu thuật ngữ quân sự ở Việt NamNhư trên đã trình diễn, toàn cảnh ngôn từ của tiếng Việt từ 1930 đếnnay trong điều kiện kèm theo của một quốc gia ròng rã hơn nửa thế kỉ trải qua những cuộcchiến tranh giải phóng dân tộc bản địa và cuộc chiến tranh chống ngoại xâm bảo vệ Tổquốc dưới sự chỉ huy của Đảng, với đường lối cuộc chiến tranh nhân dân và nềnquốc phòng toàn dân, hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt đã trở thành một lớp từvựng khá đặc biệt quan trọng, có một đời sống vô cùng độc lạ, sinh động không chỉtrong tiếp xúc quân sự mà cả trong lời ăn lời nói hàng ngày của người dân. Tuy vậy, những khu công trình điều tra và nghiên cứu về thuật ngữ quân sự tiếng Việt có tínhchuyên sâu ở Việt Nam Open khá muộn và cũng hoàn toàn có thể nói là … khan hiếm. Trong suốt một thời hạn dài, từ khi hệ thuật ngữ khoa học kĩ thuật ra đời1930 [ 57 ], [ 68 ], [ 66 ] cho đến tận 1985, mới có một cuốn từ điển lý giải vềthuật ngữ quân sự, đó là Từ điển lý giải thuật ngữ quân sự tiếng Việt củaCục Khoa học quân sự với 1500 mục từ. Đến năm 2007, Trung tâm từ điểnbách khoa Quân sự, Bộ Quốc phòng chỉnh lí, bổ trợ, sửa chữa thay thế và xuất bảnthành cuốn Từ điển thuật ngữ Quân sự với 2500 mục từ. Ở cả hai cuốn từđiển này, về cấu trúc vĩ mô, hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt được chia thành 4 nhóm đề mục lớn là : thuật ngữ quân sự chung, thuật ngữ quân sự binh chủnghợp thành, thuật ngữ quân sự những quân – binh chủng và thuật ngữ quân sự cácngành trình độ quân sự. Trong mỗi nhóm đề mục nói trên, những đơn vịthuật ngữ được sắp xếp theo trật tự ngữ âm. Về cấu trúc vi mô, cấu trúc mỗimục từ gồm có 3 phần : 1. Định nghĩa khái niệm thuật ngữ. 2. Giải thích địnhnghĩa, tức là phần lý giải lan rộng ra, dẫn giải trong thực tiễn để giúp người đọchiểu thêm về những chỗ còn trừu tượng hay khó hiểu trong nội dung kháiniệm đã được định nghĩa. 3. Lấy ví dụ hay dẫn chứng trong thực tiễn lịch sử vẻ vang ( ở những trường hợp thiết yếu ) về đối tượng người tiêu dùng định danh của thuật ngữ quân sự. 15N ăm 1996, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Bộ Quốc phòngQuân đội nhân dân Việt Nam cho ấn hành cuốn sách đồ sộ : “ Từ điển Báchkhoa quân sự Việt Nam ” [ 73 ] với 5100 mục từ. Đây thực sự là cuốn từ điểnbách khoa thư về quân sự chứ không phải một khu công trình chuyên nghiên cứubiên soạn về thuật ngữ nên ngoài việc lý giải những thuật ngữ quân sự, cuốnsách cũng tập hợp cũng lý giải cả những danh pháp quân sự, địa điểm quânsự, sự kiện quân sự v.v … Sau này, ở một số ít nghành trình độ quân sự cótính chuyên môn hoá cao như pháo binh, không quân, thủy quân … do nhu cầucông tác, nhiều đơn vị chức năng, tổ chức triển khai trong quân đội cũng đã nỗ lực biên soạnnhững cuốn từ điển thuật ngữ quân sự dùng riêng cho chuyên ngành mìnhnhư : Từ điển phòng không của Quân chủng phòng không, Từ điển pháo binhcủa Bộ tư lệnh Pháo binh, … Về mặt lý luận, thuật ngữ quân sự tiếng Việt lần tiên phong được đưa vàogiảng dạy như một môn học cơ sở ngành tại Trường Đại học Ngoại ngữ Quânsự từ những năm 1982 – 1983 với tập bài giảng của những giảng viên : Dương KỳĐức, Vũ Quang Hào …. Năm năm trước, tác giả Nguyễn Trọng Khánh đã biên soạncuốn giáo trình “ Thuật ngữ quân sự tiếng Việt ” [ 45 ], HVKHQS ( lưu hành nộibộ ), gồm 3 chương, đi từ những khái niệm cơ bản đến những đặc trưng của thuậtngữ quân sự tiếng Việt ( về nguồn gốc, cấu trúc, ý nghĩa và phương pháp biểuđạt – đặc trưng về ngữ dụng ) và những yếu tố về chuẩn hoá và sử dụng thuật ngữquân sự trong biên – phiên dịch và tiếp xúc quân sự. Kế thừa thành tựu củacác tác giả đi trước, giáo trình đã lý giải và chỉ ra những đặc thù về kíchthước, cấu trúc, nguồn gốc, đặc trưng ngữ nghĩa và ngữ dụng của hệ thuật ngữquân sự tiếng Việt với tư cách là một lớp từ vựng mang tính chuyên biệt đặcthù. Đặc biệt, tác giả rất chú ý quan tâm đến những nhu yếu khi sử dụng thuật ngữ quânsự tiếng Việt trong thực tiễn hoạt động giải trí quân sự, trong công tác làm việc nghiên cứu và điều tra, giảng dạy trình độ quân sự, phiên – biên dịch quân sự và điều tra và nghiên cứu biên16soạn những loại từ điển thuật ngữ quân sự. Đồng thời, tác giả còn cung ứng mộtsố lượng không nhỏ những đơn vị chức năng của mạng lưới hệ thống thuật ngữ quân sự tiếng Việttrong cuốn “ Những thuật ngữ quân sự thường dùng ” ( cuốn sách tham khảođược chỉnh sửa và biên tập dùng làm tài liệu hỗ trợ cho giáo trình Thuật ngữ quân sự tiếngViệt ). Đây là những đơn vị chức năng của hệ thuật ngữ quân sự được sử dụng một cáchthường xuyên, có tần suất sử dụng cao trong hoạt động giải trí trình độ quân sựnhư huấn luyện và đào tạo chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện và đào tạo trình độ quân sự, sinhhoạt quân sự, trong phiên dịch, biên dịch và tiếp xúc quân sự. Hệ thống lý luận và mạng lưới hệ thống ngữ liệu đơn cử trong những giáo trình, tàiliệu trên đây thật sự là những cơ sở lý luận và nguồn ngữ liệu thiết thực vôcùng quý báu so với chúng tôi khi nghiên cứu và điều tra một cách vừa đủ, tổng lực vềhệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt. Cùng với mạng lưới hệ thống giáo trình, tài liệugiảng dạy, trong Việt ngữ học cũng có 1 số ít ít khu công trình nghiên cứu và điều tra, luận văn, luận án, bài báo khoa học … đề cập đến hệ thuật ngữ quân sựtrong tiếng Việt. Trong số đó phải kể đến khu công trình luận án tiến sỹ củatác giả Vũ Quang Hào : Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt : đặc thù và cấutạo thuật ngữ [ 31 ]. Luận án trong bước đầu tìm hiểu và khám phá đặc thù của thuật ngữquân sự và những mẫu cấu trúc thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt. Có thể nói, đây là khu công trình tiên phong nghiên cứu và điều tra nâng cao về cấu trúc của thuật ngữquân sự tiếng Việt. Có thể nhận thấy điều tra và nghiên cứu thuật ngữ quân sự tiếng Việt ở Việt Namtập trung hầu hết vào việc biên soạn từ điển, định nghĩa khái niệm đối tượngquân sự, xem xét những mặt cấu trúc, ngữ nghĩa của thuật ngữ, xác lập những conđường hình thành thuật ngữ quân sự nhằm mục đích mục tiêu chuẩn hóa để sử dụngphù hợp với tiếp xúc quân sự. Như vậy, hệ thuật ngữ quân sự trong tiếng Việt tân tiến cũng đã thật sựđược quan tâm điều tra và nghiên cứu từ nhiều góc nhìn khác nhau. Bên cạnh việc biên soạncác loại từ điển chuyên ngành ship hàng trực tiếp công tác làm việc trình độ và giao17tiếp quân sự, việc điều tra và nghiên cứu lí luận về thuật ngữ cũng khá phong phú. Từ việcbiên soạn những giáo trình, tài liệu giảng dạy đến những bài báo khoa học vànghiên cứu nâng cao về hệ thuật ngữ dưới nhiều góc nhìn, từ yếu tố kháiniệm cho đến cấu trúc từ vựng – ngữ pháp, những đặc trưng ngữ nghĩa và cảngữ dụng, yếu tố chuẩn hoá thuật ngữ v.v … đều đã được không ít đề cập. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể thấy rõ là vẫn còn thiết yếu phải điều tra và nghiên cứu cótính chất thật khá đầy đủ, tổng lực và mạng lưới hệ thống về thuật ngữ quân sự trongtiếng Việt, đặc biệt quan trọng trong đó có yếu tố về nghiên cứu và điều tra đồng thời những đặcđiểm cấu trúc, định danh và sử dụng. 1.2. Cơ sở lí luận1. 2.1. Một số yếu tố lí luận về thuật ngữ quân sự tiếng Việt1. 2.1.1. Về khái niệm thuật ngữDựa trên những tiêu chuẩn khác nhau, những nhà khoa học trên quốc tế cũngnhư ở Việt Nam đã đưa ra một số lượng không nhỏ ý niệm về thuật ngữ. Các nhà nghiên cứu thuật ngữ trên quốc tế, thuộc những phe phái khácnhau như E. Wuster ( Áo ) ; L.Drodz ( Czech ) … nghiên cứu và điều tra thuật ngữ dựa vàoviệc tìm ra khái niệm, chuẩn hóa thuật ngữ, đặc biệt quan trọng là tìm hiểu và khám phá thuật ngữ dựavào cấu trúc, công dụng. Các nhà ngôn ngữ học Nga, khi điều tra và nghiên cứu về thuật ngữ, chịu ảnhhưởng thâm thúy của phe phái ngôn từ Vienna ( Áo ) và phe phái ngônngữ học Czech. Đại biểu cho tư tưởng này là N.P. Cudơkin. Ông cho rằng : “ cả về hình thức lẫn nội dung không hề tìm thấy đường ranh giới thực nàogiữa từ thường thì, từ phi trình độ với từ của vốn thuật ngữ. Đường ranhgiới hiện thực, khách quan giữa hai loại từ này về thực ra là một đường ranhgiới ngoài ngôn từ. Nếu như từ thường thì, từ phi trình độ tương ứng vớiđối tượng thông dụng, thì từ của vốn thuật ngữ lại tương ứng với đối tượngchuyên môn mà chỉ hạn hẹp những chuyên viên biết đến. Giữa hai loại từ này khônghề sống sót một đường ranh giới nào khác nữa ”. [ dẫn theo 31, 9 ] 18C ác nhà thuật ngữ học lỗi lạc Liên Xô, G.O. Vinôcua ; Vinôgrađôp, L.AKapanadze lại xem xét thuật ngữ ở cấu trúc, tính năng của chúng. Cũng bàn về khái niệm thuật ngữ, một số ít nhà ngôn ngữ học Xô Viết lạixác định thuật ngữ trong mối quan hệ với khái niệm. Theo “ Bách khoa toànthư quân sự Liên Xô ” [ 21 ], thuật ngữ theo tiếng Latinh là terminua, là từ vàcụm từ chỉ ra một cách đúng mực khái niệm và quan hệ của nó với những kháiniệm khác trong số lượng giới hạn của khoanh vùng phạm vi chuyên ngành, thuật ngữ là cái biểu thịvốn đã chuyên biệt hóa, hạn định hóa về sự vật hiện tượng kỳ lạ, thuộc tính và quanhệ của chúng đặc trưng cho khoanh vùng phạm vi trình độ đó. Nhà thuật ngữ học đại diện thay mặt tiêu biểu vượt trội cho ý niệm thuật ngữ gắn với kháiniệm là tiến sỹ V.P. Đanilenko. Bà ý niệm : “ thực chất của thuật ngữ với tư cáchlà một khái niệm trọn vẹn không trùng khít với từ thường thì của ngôn ngữtoàn dân … thuật ngữ gọi tên khái niệm trình độ ” [ dẫn theo 31, 13 ]. Cũng nhấn mạnh vấn đề mối quan hệ giữa thuật ngữ và khái niệm, những nhà ngônngữ học Âu – Mỹ cho rằng : “ Thuật ngữ là một tập hợp những khái niệm, trong mỗilĩnh vực chuyên ngành đều có những quy mô cấu trúc đại diện thay mặt cho tập hợp những kháiniệm. Kiến thức khoa học được sắp xếp thành những cấu trúc khái niệm, những phươngtiện miêu tả ngôn từ và kí hiệu tương ứng được sử dụng trong văn phong khoahọc và phản hồi những ngôn bản khác ” [ dẫn theo 54, 11 ] Tất cả những định nghĩa trên về thuật ngữ ở một khoanh vùng phạm vi nào đó đã đềcập đến một phần thực chất của thuật ngữ và phân phối cơ sở lí luận cho nghiêncứu thuật ngữ tiếng Việt nói chung và thuật ngữ quân sự nói riêng. Ở Việt Nam, khái niệm thuật ngữ cũng được nhìn nhận ở nhiều khíacạnh khác nhau từ mối quan hệ của thuật ngữ với khái niệm, công dụng, ngữnghĩa, cấu trúc, … Những tư tưởng này được phản ánh trong khu công trình nghiêncứu của những nhà ngôn ngữ học như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, LêKhả Kế, Hoàng Văn Hành, Lưu Văn Lăng, Hà Quang Năng, Nguyễn Như Ý, Hồng Dân, Nguyễn Đức Tồn, Võ Xuân Trang …. 19T ừ mối quan hệ giữa thuật ngữ và khái niệm, Nguyễn Thiện Giáp chorằng : “ Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt quan trọng của ngôn từ. Nó bao gồmnhững từ và cụm từ cố định và thắt chặt là tên gọi đúng mực của những loại khái niệm vàcác đối tượng người tiêu dùng thuộc những nghành trình độ của con người ” [ 27, 270 ]. Cũng cùng ý niệm với Nguyễn Thiện Giáp, trong khu công trình khoahọc Sự tăng trưởng của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế kỉ XX, Hà Quang Năngnhận xét : “ Thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu lộ một khái niệm xác lập thuộchệ thống những khái niệm của một ngành khoa học nhất định ” [ 57, 94 ]. Dựa vào góc nhìn ngữ nghĩa, trong Giáo trình Việt ngữ, Đỗ Hữu Châu ý niệm : Thuật ngữ là những từ trình độ được sử dụng trong khoanh vùng phạm vi mộtngành khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy. Cóthuật ngữ của ngành vật lí, ngành hóa học, toán học, thương mại, ngoạigiao … Đặc tính của những từ này là phải cố gắng nỗ lực chỉ có một ý nghĩa, biểu lộ một khái niệm hay chỉ tên một sự vật, một hiện tượng kỳ lạ khoa học, kĩthuật nhất định ” [ 9, 167 ]. Sau đó 20 năm trong giáo trình Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, ĐỗHữu Châu lý giải rõ hơn : “ Thuật ngữ khoa học kĩ thuật gồm có cácđơn vị từ vựng được dùng để bộc lộ những sự vật, hoạt động giải trí, đặc thù … trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa họctự nhiên hay khoa học xã hội. Khác với từ thường thì, thuật ngữ có ýnghĩa biểu vật trùng trọn vẹn với sự vật, hiện tượng kỳ lạ .., có trong trong thực tiễn, đối tượng người dùng của ngành kĩ thuật và ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa biểuniệm của chúng cũng là những khái niệm về những sự vật hiện tượng kỳ lạ nàyđúng như chúng sống sót trong tư duy. Về mặt nội dung, ở những thuật ngữkhông xảy ra sự chia cắt trong thực tiễn khách quan theo cách riêng của ngônngữ. Mỗi thuật ngữ là cái nhãn dán vào đối tượng người dùng này ” [ 7,222 ]. Dựa vào tính năng ngữ nghĩa của thuật ngữ, Hồng Dân định nghĩa : 20T huật ngữ là một đơn vị chức năng định danh, đặc thù này bảo vệ cho thuậtngữ có năng lực tách biệt với mọi ngữ cảnh, không bị ngữ cảnh làm sai lạcnội dung nó biểu lộ ” [ 15, 118 ]. Dựa vào cấu trúc, nội dung, khoanh vùng phạm vi sử dụng, những nhà ngôn từ ĐáiXuân Ninh, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Quang, Vương Toàn ý niệm : Thuật ngữ là từ, cụm từ diễn đạt đúng mực một khái niệm của một lĩnhvực trình độ nào đó. Thuật ngữ nằm trong mạng lưới hệ thống từ vựng nói chungcủa ngôn từ nhưng chỉ sống sót trong một mạng lưới hệ thống thuật ngữ đơn cử, nghĩa lànó chỉ được dùng trong ngôn từ trình độ. Toàn bộ những thuật ngữ của một nghành sản xuất, hoạt động giải trí, tri thứctạo nên một lớp từ đặc biệt quan trọng tạo thành một mạng lưới hệ thống thuật ngữ. Bất cứ một ngành khoa học ( tự nhiên hay xã hội ) nào cũng cần phải cómột tập hợp từ ngữ được xác lập một cách khắt khe, dùng để biểu thịkhái niệm về sự vật, hiện tượng kỳ lạ, hoạt động giải trí, đặc thù … trong ngành đó. Lớptừ vựng gồm có những đơn vị chức năng từ vựng như vậy được gọi là mạng lưới hệ thống thuậtngữ của mỗi ngành khoa học [ 59, 64 ]. Dựa vào tiêu chuẩn mang tính đặc trưng của thuật ngữ, Lưu Văn Lăng, ý niệm : Thuật ngữ tiếng Việt phải : 1 ) đúng chuẩn, 2 ) có mạng lưới hệ thống, 3 ) tínhbản ngữ, 4 ) ngắn gọn, cô đọng, 5 ) dễ dùng ; trong đó ba tiêu chuẩn đầu là bayêu cầu cơ bản mà tính đúng mực là quan trọng nhất [ 49, 182 ]. Chia sẻ ý niệm với Lưu Văn Lăng, tác giả Như Ý khẳng định chắc chắn : Yêu cầu cơ bản của thuật ngữ là : 1 ) tính định danh, 2 ) tính đúng mực, 3 ) tính mạng lưới hệ thống, 4 ) tính bản ngữ [ 74, 117 ]. Như vậy, mặc dầu có cách tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản, thuậtngữ đều được nhìn nhận ở những đặc trưng điển hình nổi bật : Thuật ngữ là một loại đơn vị chức năng từ vựng nằm trong mạng lưới hệ thống vốn từ củamột ngôn từ ; Kích thước cấu trúc của thuật ngữ hoàn toàn có thể là một từ ( từ đơn, từ ghép ) hoặc một cụm từ được sử dụng cố định và thắt chặt trong khoanh vùng phạm vi tiếp xúc chuyên mônkhoa học của con người ; 21C hức năng cơ bản của thuật ngữ là công dụng định danh, dùng để gọitên đúng chuẩn những khái niệm và đối tượng người tiêu dùng trong từng nghành hay từng ngànhchuyên môn khoa học đó ; Các thuật ngữ trong nghành trình độ tập hợp thành một hệ thốngvựng riêng gọi là hệ thuật ngữ của nghành hay ngành trình độ khoa họcVề mặt ngữ nghĩa, thuật ngữ là đơn vị chức năng từ vựng thường chỉ có mộtnghĩa, là nghĩa biểu vật hay biểu niệm. Nội dung ngữ nghĩa này của thuật ngữlà cố định và thắt chặt trong mọi ngữ cảnh, tức là nó không bị ngữ cảnh chi phối như cáctừ ngữ thường thì ; Về mặt nhu yếu, thuật ngữ cần bảo vệ có : tính định danh, tính chínhxác, tính mạng lưới hệ thống, tính dân tộc bản địa, tính quốc tế, tính tiện lợi … Dựa trên những ý niệm trên đây về thuật ngữ, luận án ưng ý vớiđịnh nghĩa : “ Thuật ngữ là từ ngữ biểu lộ khái niệm hoặc bộc lộ đối tượngtrong khoanh vùng phạm vi một nghành nghề dịch vụ khoa học, công nghệ tiên tiến hoặc trình độ ” [ 68, 364 ]. 1.2.1. 2. Thuật ngữ quân sựa. Khái niệm thuật ngữ quân sựThuật ngữ quân sự là lớp từ chia theo khoanh vùng phạm vi sử dụng. So với từ vựngtoàn dân thì thuật ngữ quân sự có khoanh vùng phạm vi hoạt động giải trí hẹp hơn. Tuy vậy, thuậtngữ quân sự vẫn mang những đặc trưng chung của mạng lưới hệ thống từ vựng tiếngViệt, sau đó nó còn có những đặc trưng riêng phản ánh thực chất bên trong theo quiluật của hệ thuật ngữ nói chung và nghành nghề dịch vụ hoạt động giải trí của mình nói riêng. Về mặt hình thức ngôn từ, thuật ngữ quân sự có cấu trúc là từ hoặccụm từ. Đó là cái miêu tả của thuật ngữ quân sự. Trong tiếng Việt, xét về cấutạo, tức là xét về số lượng âm tiết tạo nên từ thì từ tiếng Việt chia thành hailoại, từ đơn và từ phức, từ phức lại chia thành từ láy và từ ghép. Thuật ngữquân sự cũng chia thành từ đơn, như bom, mìn, tăng, đạn, pháo, cối, súng, mũ, hướng …. và từ phức như binh chủng, đội hình, chiến dịch, bom bi, mìnchống tăng, bom ba càng, nhưng có điểm đặc biệt quan trọng là trong thành phần củathuật ngữ chỉ sống sót những từ đơn, từ ghép và cụm từ … Các thuật ngữ quân sự22là cụm từ là những thuật ngữ có cấu trúc bằng cách tích hợp nhiều từ vớinhau, ví dụ : công tác làm việc quân sự địa phương, công tác làm việc tham mưu phục vụ hầu cần, ba mũi giáp công phòng ngự, chủ trương hậu phương quân đội … Về mặtnội dung tức là cái được miêu tả, thuật ngữ quân sự miêu tả khái niệm quân sự vàgọi tên đối tượng người dùng quân sự. Khái niệm quân sự là toàn diện và tổng thể những đặc trưng của đốitượng quân sự được phản ánh trong nhận thức của con người. Khái niệm quân sựlà mặt biểu niệm của thuật ngữ quân sự, ví dụ điển hình, thuật ngữ vũ khí phản ánh đặctrưng của nhiều đối tượng người tiêu dùng quân sự : phương tiện kĩ thuật quân sự dùng để tiêu diệtsinh lực địch, hủy hoại những phương tiện đi lại vật chất kĩ thuật của đối phương, tức làphương tiện để gây hại cho địch và bảo vệ mình. Đặc trưng ấy là nét chung củanhiều đối tượng người dùng quân sự trong quân đội. Từ những điều trình diễn ở trên, hoàn toàn có thể nhận thấy thuật ngữ quân sự cũngnhư những loại tín hiệu ngôn từ khác xuất hiện miêu tả ( từ và cụm từ gọi tên sự vậthiện tượng quân sự ) là hình thức ngôn từ và mặt được diễn đạt là nội dung kháiniệm. Các mặt này có quan hệ ngặt nghèo với nhau để tạo nên thực chất bên trong củathuật ngữ quân sự. Cụ thể, từ và cụm từ gọi tên sự vật hiện tượng kỳ lạ quân sự. Sự vật, hiện tượng kỳ lạ quân sự được phản ánh bằng khái niệm quân sự. Trường hợp lí tưởng nhất so với một thuật ngữ quân sự là những mặthình thức ngôn từ – khái niệm – đối tượng người dùng có mối quan hệ tương ứng mộtmột và thường cũng chỉ bộc lộ một khái niệm quân sự mà thôi. Trong thực tếcũng có những trường hợp một từ hoặc một cụm từ gọi tên nhiều đối tượngquân sự, đó là trường hợp thuật ngữ quân sự đồng âm, như : tăng, địa phận, ýđịnh, trách nhiệm … Cũng có những trường hợp một khái niệm được biểu thịbằng nhiều thuật ngữ quân sự, đó là trường hợp thuật ngữ quân sự đồngnghĩa. Ví dụ : một khu vực địa hình được cấu trúc, phong cách thiết kế tương thích với yêucầu kĩ thuật và giải pháp trong đào tạo và giảng dạy bộ đội, được biểu lộ bằng hai têngọi bãi tập – thao trường. Lại có trường hợp một thuật ngữ biểu lộ nhiều kháiniệm, đó là trường hợp thuật ngữ đa nghĩa : bắn, là quy trình tạo ra phát bắn23bao gồm những thao tác nạp đạn – ngắm – bóp cò ; là khẩu lệnh để chỉ huy ngườibắn triển khai động tác bóp cò – đạp cò – giật cò – bấm nút …. Căn cứ vào những đặc trưng hình thức và nội dung ngữ nghĩa, luậnán đống ý với định nghĩa : “ Thuật ngữ quân sự là bộ phận từ vựngchuyên biệt, gồm có hàng loạt những đơn vị chức năng có tư cách thuật ngữ, đượcdùng không thay đổi trong nghành nghề dịch vụ trình độ quân sự, nhằm mục đích biểu thị chính xáccác khái niệm hoặc sự vật, hiện tượng kỳ lạ thuộc nghành hoạt động giải trí quân sựhoặc trình độ quân sự ” [ 45,15 ]. b. Phân biệt thuật ngữ quân sự với những đơn vị chức năng có tương quan đếnthuật ngữ quân sự – Phân biệt thuật ngữ quân sự với từ ngữ thông thườngSự độc lạ giữa thuật ngữ quân sự với từ ngữ thường thì được biểuthị ở nội dung diễn đạt và hình thức ngôn từ. Xét về nội dung miêu tả, thuậtngữ quân sự phân biệt với từ ngữ thường thì ở mặt biểu vật và biểu niệm. Sự phân biệt này biểu lộ ở nhiều góc nhìn. Thứ nhất, thuật ngữ quân sựphân biệt với từ thường ở cả mặt biểu vật lẫn biểu niệm. Nếu như, từ ngữthông thường được dùng trong nhiều nghành, theo nhận thức chung của mọingười trong xã hội thì thuật ngữ quân sự là những từ ngữ được dùng để chỉnhững sự vật, hiện tượng kỳ lạ trong nghành quân sự và chỉ được nhận thức từ gócđộ quân sự. Có thể nói đây là những thuật ngữ thuần túy về mặt quân sự, không có trong từ ngữ thường thì, như : pháo mặt đất, máy bay tiêm kích, tiến công trong hành tiến, cối cá thể, chiến đấu tao ngộ, đánh giáp lá cà, thủ đoạn tác chiến, bắn trong hành tiến … Thứ hai, thuật ngữ quân sự khác từngữ thường thì về mặt biểu niệm nhưng lại giống hệt ở mặt biểu vật. Vídụ : biển, vũng, vịnh, ao, hồ, đồng bằng, miền núi, cuộc chiến tranh, … Xét về biểuvật, những từ này khi là từ thường thì và khi là thuật ngữ đều gọi tên nhữngsự vật hiện tượng kỳ lạ như nhau, nhưng xét về biểu niệm, nếu là từ ngữ thôngthường, từ đồng bằng ví dụ điển hình : là nơi đất thấp, phẳng phiu, thường ở lưu24vực những con sông lớn, nhưng nếu là thuật ngữ nó lại biểu lộ khái niệm : làđịa hình trống trải, mang những thuộc tính giải pháp nhất định như việcngụy trang, tiến hành đội hình, sử dụng lực lượng, phương tiện đi lại, kèm theo đólà những hình thức, thủ đoạn tác chiến cho tương thích với dặc điểm địa hình. Từphản công, khi là từ ngữ thường thì, nó bộc lộ ý nghĩa hành vi đánhlại kẻ tiến công mình, khi là thuật ngữ quân sự, nó có nội hàm khái niệm : làmột dạng tác chiến đặc biệt quan trọng của tiến công, được thực thi ở qui mô chiếndich và kế hoạch. Tuy vậy giữa khái niệm quân sự và khái niệm của từ có quan hệ mậtthiết với nhau. Bởi ý nghĩa của từ thường thì luôn được khái niệm thuậtngữ trình độ bổ trợ, làm đa dạng chủng loại thêm sắc thái ý nghĩa. trái lại, những khái niệm quân sự khi nào cũng được tăng trưởng dựa trên cơ sở ý nghĩaban đầu của từ ngữ thường thì. Chẳng hạn, khái niệm vũ khí, cuộc chiến tranh, quân đội không ít mang một số ít nét nghĩa của từ ngữ thường thì. Vũ khíđược phản ánh trong nhận thức của nhiều người là tổng thể những phương tiện đi lại, những dụng cụ được dùng để hủy hoại, sát thương quân địch và giữ lợi thế chomình ; quân đội được nhận thức là lực lượng vũ trang của một giai cấp, củamột nhà nước nhất định, có trách nhiệm đấu tranh vũ trang để bảo vệ quyền lợi củagiai cấp, của nhà nước mình. Ngoài ra, sự độc lạ giữa từ ngữ thường thì và thuật ngữ còn thểhiện ở chỗ từ ngữ thường thì được sử dụng trong nhiều phong thái, nhiềusắc thái biểu cảm khác nhau, như thân thương, xã giao, yêu thương, căm giận … Trong khi đó, thuật ngữ quân sự chỉ sử dụng trong nghành quân sự, thườngkhông mang những sắc thái ý nghĩa đó. Về hình thức ngôn từ, thuật ngữ quân sự được phân biệt với từ ngữthông thường ở những điểm hầu hết sau : Thứ nhất, về đặc thù từ loại. Thành phần của thuật ngữ quân sự chủyếu được tạo nên bởi danh từ, cụm danh từ như : vũ khí, khí tài, vũ khí chống25

Source: https://mix166.vn
Category: Thuật Ngữ

Xổ số miền Bắc