Thomas Hunt Morgan – Wikipedia tiếng Việt

Thomas Hunt Morgan (1866-1945) là nhà Di truyền học người Mỹ, thường được nhắc đến do các khám phá về vai trò của nhiễm sắc thể trong quá trình di truyền của sinh vật, về sự phân bố các gen (thời đó gọi là “nhân tố Menđen”) thành dãy lô-cut trên nhiễm sắc thể và đóng vai trò hoàn thiện học thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Ông được trao Giải Nobel Sinh lý và Y học vào năm 1933.[1][2]

Thomas Hunt Morgan tốt nghiệp đại học University of Kentucky vào loại xuất sắc khi mới có 20 tuổi (năm 1886).[3] Năm 24 tuổi (1890), Morgan được nhận bằng tiến sĩ tại Johns Hopkins University,[3] và năm sau đã được phong phó giáo sư (Associate Professor).[3] Ông là một nhà phôi học, giảng dạy tại trường Đại học Columbia. Ông quyết định nghiên cứu di truyền học, khi đó ngành khoa học này còn non trẻ.

Lúc đầu, Morgan không đống ý những quy luật di truyền mà Gregor Mendel đã thiết kế xây dựng và thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Ông dự trù kinh phí đầu tư xin triển khai thí nghiệm lai ở thỏ, nhưng không được gật đầu vì kinh phí đầu tư quá lớn. Sau đó, ông đã chọn được một đối tượng người tiêu dùng độc lạ và thuận tiện cho điều tra và nghiên cứu là ruồi giấm. Phòng thí nghiệm của Morgan về sau được gọi là ” phòng thí nghiệm ruồi “. Tham gia nghiên cứu và điều tra cùng ông có ba học trò Alfred Sturtevant, Hermann Muller và Calvin Bridges. Nhóm điều tra và nghiên cứu này đã chứng tỏ những tác nhân di truyền của Mendel nằm trên nhiễm sắc thể và hoàn hảo thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Thuyết di truyền nhiễm sắc thể xác nhận tính đúng đắn của thuyết di truyền về gene ( tác nhân di truyền ), cho thấy những gene phân bổ theo chiều dọc nhiễm sắc thể tạo thành nhóm link .

Các thí nghiệm trên ruồi giấm[sửa|sửa mã nguồn]

Khi cho lai ruồi cái có tính trạng trội (thân xám, cánh dài) với ruồi đực có tính trạng lặn (thân đen, cánh cụt), Thomas Hunt Morgan đã thu được toàn bộ ở đời con thứ nhất thân xám cánh dài. Lai tiếp ở đời này thụ tinh với nhau (lần này con đực là thân xám cánh dài), Morgan thu được kết quả là 2 kiểu hình thân xám, cánh dài và thân đen, cánh cụt với tỉ lệ 1:1. Ông đã giải thích rằng các gene cùng trên một nhiễm sắc thể đã di truyền cùng nhau. Hiện tượng đó được gọi là liên kết gene.

Tiếp tục thí nghiệm trên ruồi giấm với giống cái có tính trạng trội và giống đực có tính trạng lặn, Morgan thu được ở đời con thứ nhất hiệu quả như trên. Tiếp theo, ông cho đảo ngược vị trí của những đời con thứ nhất và lai, tức là ông cho con cháu liên tục là thân xám cánh dài và con đực là thân đen, cánh cụt ( khác với thí nghiệm trên ), ông thu được tỉ lệ kiểu hình là 41 % thân xám ; 41 % thân đen, cánh cụt ; 9 % thân xám, cánh cụt ; 9 % thân đen, cánh dài. Để lý giải yếu tố, Morgan đã cho rằng những gene lao lý màu thân và hình dạng cánh đều nằm trên một nhiễm sắc thể. Do vậy, trong quy trình giảm phân, chúng thường đi cùng nhau ( giống như link gene ). Vì vậy, đời con có kiểu hình phần đông giống bố hoặc giống mẹ. Tuy nhiên, trong quy trình giảm phân hình thành giao tử cái, ở một số ít tế bào, khi những nhiễm sắc thể tương đương tiếp hợp với nhau, chúng có sự trao đổi đoạn nhiễm sắc thể ( được gọi là trao đổi chéo ). Kết quả là những gene hoàn toàn có thể đổi vị trí cho nhau, từ đó những tổng hợp gene mới Open. Đó chính là hiện tượng kỳ lạ hoán vị gene .

Di truyền với gene nằm trên nhiễm sắc thể X không alen trên Y[sửa|sửa mã nguồn]

Trong khi làm thí nghiệm ở ruồi giấm, Morgan tình cờ phát hiện thấy một số ruồi đực mắt trắng.[4] Ông đã làm 1 thí nghiệm sau:

Phép lai thuận
Phép lai nghịch

Pt/c: Ruồi cái mắt đỏ × Ruồi đực mắt trắng
Pt/c: Ruồi cái mắt trắng × Ruồi đực mắt đỏ

F1: 100% ruồi mắt đỏ
F1: 100% ruồi cái mắt đỏ, 100% ruồi đực mắt trắng

F2: 100% ruồi cái mắt đỏ, 50% ruồi đực mắt đỏ, 50% ruồi đực mắt trắng
F2: 50% ruồi cái mắt đỏ, 50% ruồi cái mắt trắng, 50% ruồi đực mắt trắng, 50% ruồi đực mắt đỏ

Morgan lý giải rằng : gene pháp luật màu mắt chỉ có trên nhiễm sắc thể X mà không có trên nhiễm sắc thể Y. Vì vậy, thành viên có kiểu gene XY ( con đực ), chỉ cần 1 alen lặn trên X đã biểu lộ ra kiểu hình .

Do những cống hiến cho khoa học, Morgan được nhận Giải Nobel vào năm 1933. Tên tuổi của ông đi liền với tên tuổi của Mendel, những người mở đầu cho di truyền học.

Tên của Morgan được đặt cho đơn vị chức năng đo khoảng cách tương đối giữa những gene dưa trên tần số hoán vị gene. 1 % hoán vị gene tương ứng với 1 cM ( đọc là centimorgan ) .

Source: https://mix166.vn
Category: Công Nghệ

Xổ số miền Bắc