Lê Mạnh Thát – Wikipedia tiếng Việt

Giáo sư, tiến sỹ Lê Mạnh Thát ( thứ 3 bên phải sang ) tại Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2008

Giáo sư, tiến sĩ, sử gia, thiền sư[1] Lê Mạnh Thát, pháp danh là Thượng tọa Thích Trí Siêu, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1944 tại làng Cu Hoan, xã Hải Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Ông là một lãnh tụ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và đã từng bị tuyên án tử hình năm 1988 nhưng về sau được hủy bỏ. Ông tiếp tục hoạt động nghiên cứu Phật giáo và công tác tại Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Ông được biết nhiều bởi những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo cũng như lịch sử Việt Nam.

Là một nhà tu hành xuất gia từ bé, nhưng ông vẫn để tóc. Năm 1959, ông vào Huế trọ ở chùa Báo Quốc và theo học tại Quốc học Huế. Tại chùa Báo Quốc có mở xưởng làm xì dầu. Ông được phân công đảm nhiệm xem quy trình thuỷ phân có dư xút hoặc axít, hàm lượng đạm có từ bã đậu phụng. Năm 17 tuổi ông được đặc cách thi tú tài .

Năm 20 tuổi ông đậu cử nhân ngành triết học tại Viện Đại học Đà Lạt.

Từ 1965 – 1974 ông theo học tại Viện Đại học Wisconsin, Madison, Hoa Kỳ, lấy bằng tiến sỹ ngành Triết học. Luận án của ông tập trung chuyên sâu vào nghành nghề dịch vụ triết học Thế Thân ( Philosophy of Vasubandhu ) ; Vasubandhu là tên của một triết gia Ấn Độ lỗi lạc sống ở thế kỷ thứ 5 .Năm 1974 – 1975, ông là giáo sư Viện Đại học Vạn Hạnh – TP HCM, giảng dạy những môn tiếng Sanskrit, lịch sử triết học Ấn Độ, lịch sử Phật giáo Việt NamTừ 1975 – 1984, ông giảng dạy tại Viện điều tra và nghiên cứu Phật học Vạn Hạnh – thành phố Hồ Chí Minh. [ 2 ]Năm 1984, ông bị chính quyền sở tại Việt Nam bắt giam cùng với thượng tọa Thích Tuệ Sỹ, cả hai bị đưa ra xử vào năm 1988 và bị tuyên án tử hình, vì tội ” ưng ý, ủng hộ, che chở, đùm bọc hành vi phản cách mạng, lật đổ chính sách xã hội chủ nghĩa ” ( vì ông liên tục chỉ huy Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất khi hầu hết chỉ huy của giáo hội đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam được nhà nước ủng hộ ). [ 3 ] Sau đó nhờ sự can thiệp của những chính quyền sở tại Âu Mỹ, án được giảm xuống thành 20 năm cấm cố. Ông được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998, sau 14 năm nhốt. Năm 1998 tổ chức triển khai Human Rights Watch đã Tặng Kèm phần thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards cho ông và 7 người Việt khác ( Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Tần, Phạm Thái Thụy, Thích Tuệ Sỹ và 2 người được giấu tên ). [ 4 ] [ 5 ]

Từ 1998-đến nay: ông là giáo sư, Phó Viện trưởng – Viện Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2012 ông được bầu làm thành viên Ban thường trực của Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ VII (2012 – 2017).[6]

Ông thông thuộc hơn 15 thứ tiếng. [ 1 ]

Các kim chỉ nan mới về lịch sử Việt Nam[sửa|sửa mã nguồn]

Một số phát hiện[sửa|sửa mã nguồn]

Các đề xuất sửa lại lịch sử[sửa|sửa mã nguồn]

Lý giải về những ” sai sót ” chép sử trước đây[sửa|sửa mã nguồn]

Ông cho rằng trước đây đã dùng những sử liệu không đáng tin cậy để viết sử rồi cứ đinh ninh như vậy cho tới nay. Từ Đại Việt sử lược trở đi, theo giáo sư Lê Mạnh Thát, là do “những người viết sử đã không bao giờ chịu nghiên cứu và cân nhắc một cách kỹ càng những sử liệu mà họ dùng”. Ông cho rằng, để viết lịch sử nước ta vào những thế kỷ trước và sau công nguyên, phải dùng “những báo cáo của Sử ký và Tiền Hán thư như những tài liệu cơ bản cho việc kiểm soát…, dù biết rằng sự kiện của mọi cuốn sử chính thống Trung Quốc từ Sử ký trở đi không nên được chúng ta tin cậy hoàn toàn”. Tuy nhiên, theo ông, “nó vẫn có giá trị và đáng tin gấp bội lần” so với những thứ như 4 tài liệu đã dẫn trên đây, bởi vì ngay cả tài liệu có nguồn gốc rõ ràng như Nam Việt chí, “nó cũng xuất hiện sau Sử ký đến những sáu trăm năm”.[9]

Nhận định về ông[sửa|sửa mã nguồn]

Thi sĩ, nhà văn, triết gia, học giả, và cư sĩ Phật giáo Phạm Công Thiện : Tôi được như mong muốn quen biết Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát khi hai vị này còn rất trẻ và còn dưới 20 tuổi. Lúc tôi quen biết hai vị thì hai vị hãy còn là những chú tiểu ở chùa ; giờ đây thì hai vị đã trở thành hai vị Thiền sư lỗi lạc và lại cũng là Anh hùng dân tộc bản địa của Lịch sử Việt Nam văn minh. Tại sao ” gọi là Anh hùng dân tộc bản địa ” thì rất dễ nhận thấy. Nhưng tại sao gọi Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ là ” hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất, mưu trí nhất, uyên bác nhất, trong sáng nhất của Việt Nam lúc bấy giờ ” ? ” Thiền sư ” à ? Chỉ nội cái thương hiệu ” thiền sư ” đã là mệt rồi, lại còn thêm mấy chữ mơ hồ như ” lỗi lạc nhất, mưu trí nhất … ” ? Tôi muốn nói về Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát với tổng thể thận trọng và tâm lý chín chắn cặn kẽ, và tôi xin chịu mọi nghĩa vụ và trách nhiệm về cái nhìn khác thường của tôi so với nhị vị. Tại sao là ” thiền sư ” ? Và ” thiền sư ” : Là thế nào ? Không cần vấn đáp trực tiếp về những câu hỏi không bình thường này. Nơi đây, tôi chỉ xin nhấn mạnh vấn đề đôi điều gián tiếp và ai muốn hiểu gì thì cứ hiểu. Không ai hoàn toàn có thể tự nhận đủ thẩm quyền tôn giáo và tâm linh để vấn đáp dứt khoát những câu hỏi không bình thường trên. Chỉ có những người bỏ cả trọn đời mình lặng lẽ sống chết với cái gọi là ” Bồ Ðề tâm ” hay ” Phát Bồ Ðề Tâm ” thì may ra mới trực nhận đâu đó khí phách và thần dụng bảng lảng của ” nghịch hành thiền ” .

Ông Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: “Tôi không phải là người nghiên cứu lịch sử, tuy nhiên tôi đã đọc bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam và Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta của thiền sư Lê Mạnh Thát. Với cảm nhận của bản thân, tôi cho rằng những giả thiết mà thiền sư đặt ra là rất đáng trân trọng. Trước hết phải ghi nhận là thiền sư đã có một tinh thần dân tộc, luôn mong muốn làm sáng tỏ lịch sử nước nhà. Thiền sư đã cất công tìm tòi, dò sâu vào lịch sử, đọc những tài liệu, những công trình khoa học từ nhiều nguồn, nhiều quốc gia, nhất là trong các tạng kinh Phật. Đây là một cơ duyên mà không phải ai cũng có được. Trong bối cảnh mà nhiều nguồn tài liệu khác đã bị tiêu hủy, thì việc phát hiện những vấn đề lịch sử tiềm tàng trong kinh Phật là điều rất quý”…”Đây là một vấn đề lịch sử cần trao đổi cởi mở, rộng rãi để nhân dân được nghe, được biết. Qua đó, biết đâu chúng ta sẽ có thêm được nhiều nguồn thông tin mới khác nữa từ trong nhân dân”.[10]

Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng, tất cả những cái đó phải được xem xét cụ thể trên nhiều phương diện như độ tin cậy của sử liệu, phương pháp phân tích của tác giả và phải đặt trong tổng thể với các nguồn tư liệu khác. Các bộ kinh Phật đương nhiên là hết sức quý, nhưng nó cần được giải thích sự khác biệt với các nguồn tư liệu khác cũng có giá trị riêng của nó, kể cả truyền thuyết và dã sử. Không phải cứ nói đến “chính sử” của triều Lê (Đại Việt Sử ký toàn thư) do những sử gia tên tuổi biên soạn đã là chân lý tuyệt đối. Bởi trước hết, nó là sản phẩm của những cá thể hay triều đại, dù uyên thâm đến mấy thì cũng vẫn có thể có sai sót và nhiều khi xuất phát từ những lợi ích không thể gọi là tuyệt đối vì dân tộc mà căn bản là của giới cầm quyền. Đương nhiên, cũng không chỉ dựa vào một bộ kinh dù vô cùng quý giá trong kho tàng Phật giáo mà phủ định, đơn giản những nguồn sử liệu khác.[11]

Các tác phẩm tiêu biểu vượt trội[sửa|sửa mã nguồn]

Công trình điều tra và nghiên cứu của Giáo sư Tiến sĩ Lê Mạnh Thát về lịch sử và văn học Phật giáo Việt Nam gồm 26 tác phẩm với 18.322 trang, 5 bài điều tra và nghiên cứu chuyên ngành gồm 140 trang, 4 tác phẩm về những đề tài Phật học 1.436 trang

  • Lịch sử Phật giáo Việt Nam – 3 tập. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006.
  • Tổng tập Văn Học Phật giáo Việt Nam – 3 tập. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh phát hành năm 2006.
  • Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguồn của dân tộc ta.
  • Toàn tập Minh Châu Hương Hải.
  • Toàn tập Trần Thái Tông.
  • Toàn tập Trần Nhân Tông.
  • Toàn tập Toàn Nhật Quang Đài.
  • Nghiên cứu về Mâu Tử – 2 tập.
  • Chân Đạo Chánh Thống.
  • Lịch sử Âm nhạc Phật giáo Việt Nam.
  • Tự điển Bách Khoa Phật giáo Việt Nam – 2 tập.
  • The Philosophy of Vasubandhu.
  • Ngữ pháp tiếng Phạn

Một số phát hiện khác[sửa|sửa mã nguồn]

Ông phát hiện ra 1 số ít sai sót của Lê Quý Đôn khi ghi chép về văn thơ :

  • Bài Xuân nhật tức sự, được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục và ghi là của thiền sư Huyền Quang thời nhà Trần (1254-1334). Từ đó nhiều thế hệ học giả đã dẫn giải, bình luận, coi là một kiệt tác thi ca chữ Hán của Việt Nam. Trên tạp chí Văn học số 1-1984, lần đầu tiên giáo sư Lê Mạnh Thát đã đưa ra tài liệu chứng minh bài thơ trên không phải của thiền sư Huyền Quang mà của thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203) thời nhà Tống bên Trung Quốc.[1]
  • Bài khác cũng được Lê Quý Đôn chép trong Kiến văn tiểu lục, ghi là của Hương Hải thiền sư thời nhà Lê. Nhưng trong công trình nghiên cứu rất công phu về thiền sư Hương Hải (Toàn tập Minh Châu Hương Hải), giáo sư Lê Mạnh Thát cũng phát hiện tác giả thật của nó là thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc thời Tống (ông còn phát hiện số 59 bài thơ được coi là của thiền sư Hương Hải do học trò của thiền sư chép trong Hương Hải thiền sư ngữ lục, có đến 47 bài không phải của thiền sư).[1]
  • Lê Mạnh Thát chứng minh rằng trong số 40 bài thơ thiền được cho là của các thiền sư Việt Nam thời Lý-Trần sáng tác mà Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến văn tiểu lục, trên thực tế có tới 32 bài là tác phẩm của người Trung Quốc, sau đó được một số người Việt Nam “gia công” lại và gán cho các tác giả Việt Nam.

Trong 1 tiểu luận viết cho Tạp chí Văn học vào năm 1992,[12] sử gia Hà Văn Tấn dẫn lại một số ý kiến của Lê Mạnh Thát (khi này đang ở tù) cũng như nhấn mạnh rằng, ông (Hà Văn Tấn) đã lần theo những chỉ dẫn, chú thích của Lê Mạnh Thát để kiểm tra lại nguồn tài liệu lập luận của thiền sư, và ông (Hà Văn Tấn) hoàn toàn đồng ý với những khám phá này.[cần dẫn nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Bản Tin TA

Xổ số miền Bắc