KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI – Tài liệu text

Chương 4

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI

4.1. GIỚI THUYẾT VỀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

4.1.1 Khái niệm không gian nghệ thuật

Khác với không gian, không gian nghệ thuật là một bình diện của thi pháp. Giữa không gian

nghệ thuật với không gian vật chất bên ngoài sẽ có những đường biên ranh giới nhất định. Và khái

niệm không gian nghệ thuật được các nhà lí luận phát biểu như sau:

“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh

thể của nó” (Lê Bá Hán chủ biên, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000).

“Không gian nghệ thuật là môi trường hoạt động của nhân vật” (Nguyễn Xuân Kính, Thi

pháp Ca dao, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992).

“Không gian nghệ thuật là mô hình thế giới độc lập có tính chủ quan và mang ý nghĩa tượng

trưng của tác giả” (Trần Đình Sử, Tuyển tập – tập 2, Nxb Giáo dục, 2005).

Mỗi ý kiến tuy không thật giống nhau về cách diễn đạt nhưng đều gặp nhau ở những luận

điểm sau:

– Không gian nghệ thuật thuộc về phương diện hình thức bên trong của tác phẩm.

– Không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại của thế giới hình tượng.

– Không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối và mang tính quan niệm.

Như vậy, có thể hiểu không gian nghệ thuật là một bình diện quan trọng của thi pháp, chỉ hình

thức tồn tại chủ quan của thế giới nghệ thuật.

4.1.2. Vai trò, ý nghĩa của không gian nghệ thuật trong kết cấu nghệ thuật của tác phẩm

Với tư cách là một phương diện thi pháp trong kết cấu nghệ thuật của một tác phẩm, không

gian nghệ thuật là hình thức tồn tại chủ quan của hình tượng nghệ thuật. Tính chủ quan của không

gian thể hiện ở chỗ nó là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ, được biểu hiện dưới hệ quy chiếu của điểm

nhìn chủ thể. Và đến lượt mình, không gian cũng mở ra một trường nhìn khác về thế giới. Tùy theo

cá tính sáng tạo, mỗi nghệ sĩ sẽ cho ra đời những mô hình thế giới riêng để chuyển tải những quan

niệm riêng của chủ thể về cuộc đời.

Không gian nghệ thuật trong tác phẩm là sự mô hình hóa các mối liên hệ về thời gian, đạo

đức, xã hội của bức tranh thế giới. Với vai trò này, không gian thể hiện rõ mối quan hệ chặt chẽ với

thời gian nghệ thuật. Có nhiều khi, thời gian được không gian hóa, trở thành một chiều của không

[external_link_head]

gian. Trong không – thời gian ấy, hình tượng nhân vật đã vận động qua nhiều mối quan hệ với chính

cái tôi nội cảm dưới những quan điểm đạo đức nhất định của xã hội. Bên cạnh đó, không gian nghệ

thuật còn tạo thành các ngôn ngữ, biểu tượng nghệ thuật để biểu hiện thế giới quan niệm của tác

phẩm. Vai trò ấy đã khẳng định tính biểu trưng của không gian trong văn học. Người nghệ sĩ khi

sáng tác không đơn thuần là việc vẽ lại những không gian vật lí mang tính vật chất đơn thuần mà

cái chính là muốn gửi gắm một góc nhìn về con người và cuộc đời. Chính vì vậy, trong quá trình

khám phá tác phẩm cần phải xem xét không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới, một

phương diện thể hiện cảm xúc và tư tưởng thẩm mĩ của tác giả. Bởi lẽ, cũng như thời gian thì không

57

gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm thể hiện một quan niệm nhất định về

cuộc sống.

Lưu ý rằng, mô hình không gian nghệ thuật trong văn học rất đa dạng. Iu. Lốtman đã đưa ra

ba mô hình không gian: Không gian điểm, không gian tuyến, không gian mặt phẳng. Nếu như

không gian tuyến có hướng vươn đến chiều dài, không gian mặt phẳng có hướng vươn ra chiều rộng

thì không gian điểm lại được xác định bằng các giới hạn và tính chất chức năng của nó, tính đối lập

của nó. Giáo sư Trần Đình Sử thì chia không gian nghệ thuật theo những ranh giới giá trị để có

không gian bên trong và không gian bên ngoài, không gian bất biến và không gian khả biến, không

gian trên cao và không gian dưới thấp…

4.2. NHỮNG HÌNH THỨC KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU TRONG VĂN HỌC

THIẾU NHI

4.2.1. Không gian nghệ thuật trong văn học dân gian dành cho thiếu nhi

Văn học dân gian dành cho thiếu nhi (Folkore thiếu nhi) bao gồm những sáng tác truyền

miệng của trẻ em, những sáng tác thơ ca dân gian do người lớn làm ra cho trẻ em và một số tác

phẩm văn học dân gian dùng chung, tức là những tác phẩm trẻ em hấp thu từ bộ phận văn học dân

gian người lớn (Trần Đình Sử, Đỗ Bình Trị, Văn học 1. Hà Nội, 1993). Folkore thiếu nhi khá đa

dạng về thể loại. Tuy nhiên những thể loại có sức sống lâu bền đối với tâm lí và đời sống tâm hồn

trẻ vẫn là hát ru, đồng dao và truyện cổ tích, truyền thuyết.

Truyện Tấm Cám thể hiện rõ đặc trưng thi pháp của truyện cổ tích thần kì. Yếu tố thần kì đã

để lại dấu ấn trong bình diện không gian nghệ thuật. Trong truyện, không gian cực kì rộng lớn

nhưng chỉ mang tính phiếm chỉ. Tuy không xác định cụ thể nhưng không gian ấy vẫn gợi cho người

đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi. Nhân vật Tấm đã đi từ cánh đồng quê đến cung vua, đi từ

không gian làng quê rất đời thường với đồng, ao, giếng nước, vườn, cây cau, cây xoan đào, cây thị,

quán nước… đến không gian cung đình. Tấm cũng đã trải qua bao nhiêu lần hóa kiếp. Chim vàng

anh, khung cửi, quả thị… đã làm nên một không gian thần kì, lung linh, huyền ảo cho tác phẩm.

Nhờ tính chất thần kì đó mà giữa không gian loài vật với con người đã có sự thông hiểu nhau rất dễ

dàng. Giữa các lớp không gian có mối liên thông tuyệt đối. Chỉ cần Tấm khóc là Bụt đã ngay lập

tức có mặt để giải quyết khó khăn cho nhân vật. Mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh cũng

rất lỏng lẻo. Không gian không hề gây trở ngại, không trở thành lực cản đối với hành động con

người. Vì thế qua bao nhiêu kiếp nạn, Tấm vẫn sống, đặc biệt là lại càng xinh đẹp hơn xưa. Xây

dựng không gian nghệ thuật mang tính phiếm chỉ, không có lực cản như vậy là một đặc điểm thi

pháp của truyện cổ tích. Không gian phiếm chỉ sẽ cổ tích hóa, ảo hóa không gian hiện thực, từ đó

làm tăng tính chất thần bí cho truyện cổ tích. Việc để cho không gian ấy không có mối quan hệ phụ

thuộc với hình tượng hoàn toàn phù hợp với ý đồ xây dựng kiểu nhân vật hành động hay còn gọi là

kiểu nhân vật chức năng. Chính đặc điểm không gian này mà nhân vật đã dễ dàng thực hiện ước mơ

của mình. Giáo sư Trần Đình Sử viết: “Trong Tấm Cám, người, bụt, cá, chim, gà, quả thị, cây,

khung cửi đều biết nói và đều hiểu nhau dễ dàng. Việc nhặt thóc, tìm xương, làm ra áo quần, ngựa,

giày… đều rất dễ vì có phép màu…” cũng chính là do đặc điểm riêng của truyện cổ tích.

Với thể loại truyền thuyết, sự kiện lịch sử có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng không gian

nghệ thuật trong các tác phẩm. Ở truyền thuyết Thánh Gióng, không gian nghệ thuật đã có những

đặc điểm riêng. Cái lõi của sự kiện và nhân vật lịch sử có thật đã chi phối đến bình diện không gian.

Ta bắt gặp trong truyện những tên đất, tên làng quen thuộc và có thật trong cuộc sống. Theo giáo sư

58

Đỗ Bình Trị thì cả đất nước vùng trung châu hiện nay vẫn còn những dấu vết của Thánh Gióng đuổi

giặc Ân, từ dấu chân ngựa sắt tạo thành dải ao chuôm ở Thuận Thành đến Quế Võ, từ những lũy tre

ngà mọc suốt từ Quế Võ đến Gia Lương sang Thuận Thành cho đến cọc đá buộc ngựa ở làng Cựu

Tự, cây cởi áo trên đỉnh Phù Mã… Đó là những bằng chứng xác thực cho cái lõi lịch sử trong truyền

thuyết này. Tuy nhiên “sự kiện lịch sử đi vào truyền thuyết theo con đường của phương pháp sáng

tác dân gian” nên màu sắc của huyền thoại vẫn còn chi phối rất nhiều đến không gian nghệ thuật.

Chính vì vậy mà không gian ở đây vẫn là không gian không có sức cản đối với con người. Thánh

Gióng thực hiện hành trình về trời để được bất tử một cách rất dễ dàng. Khoảng cách giữa mặt đất

và bầu trời, giữa cái đời thường và cõi bất tử được thu hẹp lại. Với dung lượng của một truyền

thuyết nhưng Thánh Gióng đã xây dựng được nhiều lớp không gian. Bên cạnh không gian đời

thường của làng quê lại xuất hiện không gian chiến trận. Không gian bầu trời – biểu trưng cho cõi

bất tử lại được đặt trong mối quan hệ với không gian đời thường của mặt đất. Tuy nhiên, ranh giới

giữa các không gian này chỉ là gang tấc. Nhân vật thực hiện sự di chuyển giữa các không gian rất

nhanh mà không vấp phải trở ngại nào. Thêm nữa, trong truyền thuyết này, nhân vật đa phần là vận

động ở không gian trần thế, trong cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu của con người. Kết thúc truyện,

dẫu Thánh Gióng về trời nhưng dấu ấn của nhân vật vẫn lưu lại trần thế, lại nhập vào hồn thiêng

sông núi.

Nhìn một cách tổng quát thì không gian trong truyện cổ dân gian là không gian đời thường

mang tính chất không cản trở. Tính chất ấy là hệ quả tất yếu của tư duy tưởng tượng, hư cấu, huyền

thoại. Không gian này thường sóng đôi với tính chất bất biến, ngưng đọng của thời gian. Nhờ đó mà

nhân vật không bị già đi theo biến động của cuộc đời. Hư cấu – chất phụ gia đặc biệt của truyện kể

dân gian – đã tham gia vào việc xây dựng một thế giới vừa hư vừa thực. Đó là môi trường thuận lợi

để nhân vật chính thực hiện được thiên chức cũng như ước mơ, lí tưởng của mình. Vì thế, nhân vật

chức năng là mô hình chung cho các truyện kể dân gian.

Không gian nghệ thuật trong những thể loại trữ tình dân gian cũng có những đặc điểm tương

tự. Hát ru với chức năng sinh hoạt là ru trẻ ngủ cho nên bên cạnh những thế giới nghệ thuật quen

thuộc còn đưa ra thế giới diệu kì, thần tiên bên kia bến bờ, xứ sở của ước mơ. Không gian nghệ

thuật vì thế mà vừa thực vừa ảo. Trần Đình Sử cho rằng: Hát ru là những sáng tác nghệ thuật truyền

miệng thuộc loại xưa nhất của loài người, chứa đựng những dấu vết rõ ràng của ma thuật. Và không

gian nghệ thuật ảo cũng chính là một biểu hiện của dấu vết ma thuật ấy. Tính chất ảo đó cũng xuất

phát từ đặc điểm: Hát ru là âm vang của tình mẹ, là tiếng vọng thơ ca của ước mơ giản dị của người

mẹ. Với không gian đời thường ấm áp tình yêu ấy, hát ru “đã thấm vào giấc ngủ con trẻ Việt như

mưa xuân tưới thấm đất màu” (Doãn Quốc Sĩ).

Với đồng dao, thể loại này có một đặc điểm quan trọng là luôn lấy vần nhịp làm cơ sở tồn tại.

Chính nhờ yếu tố vần nhịp đó nên không gian nghệ thuật trong đồng dao không cố định mà liên tục

chuyển đổi:

… Đầu quạ quá giang

Sang sông về đò

Cò nhảy gãy cây

Mây leo bèo nổi

Ổi xanh hành bóc

Róc vỏ đỏ lòng

59

Tôm cong đít vịt…

(Bài ca trò chơi chuyền thẻ)

Như vậy là giữa các không gian không có gì cản trở cả. Chính điều này đã làm cho đồng dao

nhiều lúc trở nên mơ hồ về nghĩa và “phi lôgic”. Theo Vũ Ngọc Khánh thì đó là sự vô nghĩa có

duyên. Những “bài ca trò chơi này” vì thế mà không rõ ràng về tư duy lí luận, chỉ là thứ tư duy

bằng ấn tượng mà thôi. Không gian cũng vì thế mang tính tả thực về những hiện thực chắp vá, ghép

mảnh, không bị gò bó.

Với tính chất tả thực đó nên cũng như hát ru, không gian trong đồng dao luôn là không gian

gần gũi, quen thuộc với trẻ. Đồng dao có đời sống diễn xướng gắn bó với hoạt động vui chơi của trẻ

thơ. Để đáp ứng tâm lí các em, đồng dao đã tạo ra một thế giới đầy màu sắc, ngập tràn những hình

ảnh vui tươi, ngộ nghĩnh về những con vật, đồ vật và cây cỏ thân thương. Một thiên nhiên và cuộc

sống xã hội đã mở ra mênh mông trước mắt trẻ từ chính thể loại dân gian còn được gọi là “ca dao

thiếu nhi” này. Vì vậy, khi đến với đồng dao, “ta không còn là ta nữa mà là một đứa bé như muôn

ngàn đứa bé khác cười rỡn trên khắp vùng quê…” (Doãn Quốc Sĩ).

4.2.2. Không gian nghệ thuật trong VHTN hiện đại

Với tâm lí lứa tuổi và sự hạn chế nhất định về nhận thức, trẻ thơ khó thoát ra khỏi những

không gian đời thường quen thuộc hàng ngày. Cái mà các em hướng đến khám phá trước hết là

cuộc sống và thiên nhiên gần gũi xung quanh mình. Vân Thanh đã nhận định rằng, bài học mở đầu

và niềm khao khát hiểu biết của con người ở lứa tuổi bé nhất là bài học về tự nhiên bao la. Chính vì

lẽ đó mà các nhà văn hiện đại đã dẫn dắt tuổi thơ vào thế giới tự nhiên diệu kì. Võ Quảng đã tạc nên

trong thơ mình một mảng vườn bách thú, bách thảo giàu có về các loài chim, thú. Cái xã hội loài vật

ấy với bồ chao, bách thanh, cò, vạc, chẫu chàng, nai, thỏ… đã nhất loạt vỗ cánh, cất lên những tiếng

kêu ríu rít làm nên một không gian rộn ràng âm sắc trong thơ ông. Đất rừng phương Nam của Đoàn

Giỏi đi vào trí nhớ tuổi thơ với những trang văn miêu tả rừng đước Cà Mau trong một sắc xanh bất

tận: “Trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, chung quanh mình cũng toàn một sắc xanh cây lá”.

Ngôi nhà, mái trường, sân chơi… là những không gian điểm gắn bó với trẻ thơ. Võ Hồng đã

có những trang viết xúc động về không gian gia đình với tác phẩm Áo em cài hoa trắng. Cả không

gian gia đình giờ chỉ tập trung lại ở giường của má. Ở đó, người mẹ bị bệnh nặng và sớm biết

đường đời của mình không còn dài đã níu kéo đứa con sáu tuổi lại với mình chứ không muốn xa

cách con. Ở đó, người mẹ đã dạy cho con những chữ cái đầu tiên, bằng lối học “nằm ngửa” lạ lùng

dễ làm cho mọi chữ nghĩa đều trôi tuột. Ở đó, má đã luôn vuốt ve “tôi” như để xác nhận sự hiện

diện của một vật báu mà má sắp bỏ lại trên cõi trần này. Những giọt nước mắt của người mẹ đã

thấm ướt không gian ấy. Cuốn tập xuất hiện đưa lại một không gian mới lạ cho nhân vật Tôi với

những hình ảnh minh họa sinh động. Cuốn vần quốc ngữ ấy cũng đồng thời chứng kiến sự ra đi

đành đoạn của người mẹ. Sự mất mát khiến nhân vật Tôi nhìn mọi sự vật với cái nhìn tâm trạng.

Cuốn tập quen thuộc lập tức hình thành những ranh giới. “Nhìn trang bên này thì má tôi còn, nhìn

trang bên kia thì má tôi mất”. Con đường đóng ngăn hai trang sách trở thành đường biên ranh giới

giữa sự sống và cái chết. Với tình yêu người mẹ, nhân vật Tôi đã luôn gìn giữ cuốn vần quốc ngữ

như những lưu ảnh đẹp của tình mẫu tử. Nước mắt nhân vật đã lặng lẽ trào khi lật lại những trang

sách. Những cuộc hành hương lặng lẽ về quá khứ để tìm lại bóng hình mẹ đã xuất hiện thông qua

việc tìm về không gian nhỏ của trang sách. Đó chính là hành trình về Đất Thánh của tâm hồn tôi.

60

Đại diện cho không gian tuyến luôn trở đi trở lại trong văn học thiếu nhi hiện đại chính là

hình ảnh con đường. Trần Hoài Dương đã mở đầu truyện ngắn Con đường nhỏ bằng những câu thơ

dễ thương:

Yêu sao con đường nhỏ

Nguồn của mọi con đường

Hãy giữ cho đường đó

Không bao giờ rác vương

Không gian nhỏ hẹp và bình dị ngay trước ngõ nhà ấy là cầu nối dẫn đến đồng cỏ hoa vàng với cỏ

mật ngọt lịm, ngan ngát mùi thơm. Như lời Ông thì: “Dù có đi Đông đi Tây, đi đến tận cùng trời cuối

đất đi chăng nữa, bao giờ cũng phải bắt đầu từ con đường nhỏ trước ngõ nhà mình”. Vì thế nên sau khi

cùng Ông dọn con đường, Bê khoang đã bước những bước thật khoan thai, thận trọng trên con đường

rải sỏi sạch bong, đậm nhạt những bông cau. Những cây đu đủ, cây tre lá non đong đưa như muốn gửi

bóng mình đi xa cùng nhân vật. Không gian đời thường này vì thế mà có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc. Tôi

đi học của Thanh Tịnh, Ngày em đến trường của Lê Phương Liên cũng lấy không gian con đường để

gợi mở những cảm xúc vui tươi trong ngày đầu đi học.

Khác với văn học dân gian, không gian đời thường trong văn học thiếu nhi hiện đại thường là

những không gian sống động, cụ thể chứ không mơ hồ, phiếm chỉ. Hình tượng nhân vật đi về trong

những vùng không gian ấy với những diện mạo, hành tung rõ ràng. Duy Khán đã viết về một không

gian làng quê “Lao xao” thật tinh tế: “Gió chớm hè. Cây cối um tùm. Cả làng thơm. Cây hoa lan nở

hoa trắng xóa. Hoa dẻ từng chùm mảnh dẻ. Hoa móng rồng bụ bẫm thơm như mùi mít chín ở góc

vườn ông Tuyên. Ong vàng, ong vò vẽ, ong mật đánh lộn nhau để hút mật ở hoa…”. Nguyễn Thị

Châu Giang cũng góp cho “Hội mùa thu” một không gian đặc trưng của mùa thu và của ngày hội.

Trên con sông nhỏ như một đầm lầy, bao nhiêu sinh vật đã quy tụ. Rừng cỏ may vang động tiếng

nói, tiếng cười. Mùa thu đến dịu dàng cùng làn hương dìu dịu của nến, của lồng đèn, bánh nướng và

cốm xanh. “Màn đêm buông xuống. Da trời mịn và êm như nhung. Giữa đĩa trời mênh mông, ông

Trăng hiện ra vành vạnh, tròn như một mâm cỗ chan chứa ánh vàng. Cả dòng sông, cả cánh rừng,

cả những tàu dừa ngả xuống nước, cả những bông sen đang e ấp cũng nhuốm bạc, cũng vẫy vùng

trong suối vàng vô tận lấp lánh, lấp lánh. Đêm hội bắt đầu trong tiếng vỗ tay rì rào của rừng cỏ,

trong muôn vàn âm thanh khác lạ của đất trời và nước”. Đó thực sự là những dòng văn đẹp về một

không gian khoáng đạt và nên thơ.

Bên cạnh không gian đời thường thân thuộc, văn học thiếu nhi hiện đại còn xuất hiện kiểu

không gian phiêu lưu. Không gian phiêu lưu là không gian xa lạ, chứa đựng nhiều hiểm họa đối với

nhân vật. Trong không gian này, con người bị cắt đứt những mối liên hệ thân thuộc, lênh đênh, trôi

dạt giữa dòng đời. Chính vì thế, con người phải sống bên ngoài các giới hạn, ngoài khuôn khổ vốn

có và phải đương đầu với thế giới. Nói như Bakhtin thì đây là không gian bộc lộ con người trong

con người. Trong không gian phiêu lưu ấy, nhân vật bị ném vào những thế giới xa lạ, bước chân vào

kiếp sống tha hương. Không gian quê nhà giờ chỉ nằm trong kí ức, trong nỗi nhớ và trong ước vọng

tìm về. Truyện Chú đất nung (Nguyễn Kiên) đã xây dựng nhiều không gian. Sự thay đổi, dịch

chuyển ngoài ý muốn của nhân vật đã tô đậm tính chất phiêu lưu của chú bé Đất. Nhân vật bị ném

vào những thế giới xa lạ của kiếp tha hương. Trên bước đường phiêu lưu ấy, không gian quê nhà chỉ

xuất hiện trong kí ức, trong nỗi nhớ và trong ước vọng tìm về của nhân vật. Sống trong một cái nắp

tráp hỏng với thân phận của một thứ đồ chơi, chú bé Đất luôn nhớ về quê nhà, nhớ về cái gò cao

61

[external_link offset=1]

ngoài cánh đồng. “Ở đấy, có trời xanh mây trắng, có những dòng nước chảy dào dạt, có đàn trâu

chăm chỉ và những chú sáo sậu vui tính”. Chính vì thế, chú đã tìm đường ra cánh đồng. Cuộc phiêu

lưu này không nhằm để khám phá những không gian mới mà để tìm về với không gian thân thuộc

bấy lâu bị chia cắt. Con đường tìm về cánh đồng rất xa xôi. Không gian nghệ thuật trở thành môi

trường thử thách nhân vật. Cùng với bước chân phiêu lưu, chú bé Đất đã trưởng thành rất nhiều về

nhận thức và tâm hồn. Có thể xem tác phẩm là hành trình nghệ thuật đưa chú bé Đất trở thành chú

Đất Nung, để chú quay trở về nguồn cội yêu thương của cuộc đời.

Trong câu chuyện này còn đồng thời diễn ra cuộc phiêu lưu khác của chàng kị sĩ bảnh trai và

nàng công chúa mặt trắng. Trước thời gian phiêu lưu, không gian sinh tồn của họ đóng khung lại

trong chiếc lọ thủy tinh êm đềm, không biết đến mưa nắng, nóng lạnh của cuộc đời. Không gian đó

đã cấm cung, giam hãm nhân vật, chỉ cho phép chàng kị sĩ chạy quanh lầu của công chúa, còn công

chúa thì đứng tựa cửa lầu nhìn kị sĩ. Hành động đó cứ diễn ra, lặp đi lặp lại từ ngày này sang ngày

khác. Nhưng rồi không gian bình ổn nhưng đơn điệu ấy đã bị con chuột già phá tan và họ đã gặp vô

số rắc rối. Họ phải đối mặt với đêm tối mênh mông chỉ có tiếng muỗi bay vo vo, phải chìm ngập

trong dòng nước đen của cống. Tiếp đó là hàng loạt không gian xa lạ và ngày càng nới rộng về biên

độ: Con ngòi, cánh đồng xa… Nhân vật đã trải qua những nỗi sợ hãi kinh người, bị nhũn hết chân

tay. Nhưng điều quan trọng là cuối cuộc hành trình ngoài ý muốn này họ đã tìm được cho mình một

bài học để đời: Nếu chỉ tìm chốn nương nhờ trong thế giới của lọ thủy tinh kia để an phận làm kiếp

đồ chơi thì họ sẽ không có đủ bản lĩnh để đương đầu với cuộc sống được.

Nguyễn Huy Thiệp trong một truyện ngắn của mình đã khẳng định: “Chuyện của trẻ con thì

người lớn không nên cắt nghĩa vì lôgic của trẻ con là thứ lôgic huyền thoại không tiền khoáng hậu.

Người lớn bị thực tế khắc nghiệt làm mất đi sự mong manh của lôgic huyền thoại, thay vào đó là

thứ lôgic xám xịt, rạch ròi” (Tâm hồn mẹ). Ý kiến này đã đụng chạm tới mạch ngầm của thiên tính

trẻ, tới lôgic huyền thoại của trẻ thơ. Niềm vui của trẻ là được thực hiện những cuộc phiêu lưu đầy

sáng tạo và tưởng tượng tới những thế giới diệu kì, những không gian thần kì. Ở đó cái đời thường

bị đảo lộn, thay vào đó là những nghịch lí thú vị. Có thể xem truyện cổ tích chính là nơi sản sinh và

nuôi dưỡng rất tốt tư duy huyền thoại này của trẻ. Mỗi câu chuyện cổ là những ô cửa mầu nhiệm

mở ra những không gian bí ẩn, diệu kì. Đến văn học thiếu nhi hiện đại, không gian đó vẫn tồn tại

như một thủ pháp nghệ thuật. Ở một số tác giả, không gian này giữ vị trí thống trị trong thế giới

nghệ thuật tạo nên những câu chuyện cổ tích hiện đại. Chuyện hoa chuyện quả của Phạm Hổ là

trường hợp như thế. Thế giới tự nhiên qua lăng kính của nhà văn bỗng bừng sáng những gam màu

thần thoại. Trong thế giới cổ tích thần kì ấy, nguồn gốc của muôn loài được nhìn nhận thật thú vị.

Ngón tay út của người thầy biến thành cây nhân sâm, những con tép trở thành tép bưởi, khóm dứa

cất dấu ba viên ngọc đổi màu biến thành hoa ngọc trai… Hoa quả bốn miền đã tụ họp về ngôi nhà

lớn “Chuyện hoa chuyện quả” và lung linh trong những sắc màu huyền diệu. Mỗi không gian loài

vật là một biểu tượng về con người. Tác giả mượn không gian mầu nhiệm đó để khẳng định một

điều rất hiện thực: Tất cả hoa đẹp, quả lạ trên đời đều do tình yêu thương và lòng tốt của con người

kiến tạo thành. Nhờ vậy, tác phẩm thực sự là một thế giới đầy hương thơm, sắc màu và lắng đọng

vẻ đẹp tâm linh.

Bài thơ Mây và sóng của đại thi hào ấn Độ – Tagor – cũng đã dựng lên một không gian nghệ

thuật huyền ảo như cổ tích. Qua điểm nhìn hồn nhiên của trẻ thơ, không gian được nhào nặn lại và

mở ra khoảng vô tận của một bức tranh tuyệt diệu. Giữa bầu trời và mặt đất tuyệt nhiên không có sự

cản trở và trẻ đã mặc sức lên cao để bay bổng với thiên đường lãng mạn của mây và sóng. Đây cũng

62

chính là hai không gian tiềm ẩn sắc màu thần tiên biểu trưng cho những nơi xa rộng đầy hấp dẫn

của cuộc đời đang mời gọi con người. Ở đó:

“… Chúng ta vui chơi từ tinh mơ đến hết ngày

Chúng ta giỡn với sớm vàng rồi lại đùa cùng trăng bạc…”

Tuy nhiên trong kết cấu bài thơ thì không gian vô biên của mây và sóng được đặt trong tương

quan với không gian hữu hạn của con người. Tương quan ấy xác lập vị thế của không gian đời tư,

một không gian ấm áp, rộng rinh của tình mẫu tử. Lúc này, không gian vũ trụ với mây, trăng, bầu

trời, sóng biển… đã được xã hội hóa, tham gia vào trò chơi tình yêu mà tuổi thơ đã sáng tạo ra. Nhờ

đó mà tấm lòng nhân vật được mở ra đến không cùng, trở thành không gian nội cảm riêng tư và bí

mật: “Không một ai trên cõi đời này biết mẹ con ta đang ở đâu”. Mái nhà là không gian tổ ấm đầu

đời chứa đựng nhiều yêu thương. Trời xanh trở thành biểu tượng cho hạnh phúc trong lành và vầng

trăng là sự hóa thân của tấm lòng dịu hiền người mẹ. Như vậy ở tác phẩm này không gian thần kì

chỉ là điểm tựa để phát lộ thông điệp: hạnh phúc không ở đâu xa mà ở ngay trong không gian dịu

dàng của lòng mẹ. Đó cũng là một trong rất nhiều bản thánh ca thơ ngọt ngào về sự sống vang lên

từ đất nước của những tôn giáo thâm nghiêm để đồng vọng với nhân loại.

Tuổi thơ là nơi lưu giữ rất nhiều ước mơ đẹp về cuộc đời. Trong phong phú và bộn bề mơ

ước, chúng ta bắt gặp khát vọng được vượt lên những không gian quen thuộc thường nhật để khám

phá những vùng đất mới. Không gian mơ ước xuất hiện trong một số truyện thiếu nhi hiện đại là kết

quả tất yếu của nét tâm lí phổ biến ấy.

Chú bồ nông ở Samaccan của Tô Hoài thể hiện ước mơ kết nối không gian. Nhà văn đã chọn

con chim bồ nông làm sứ giả, làm cầu nối vô hình đưa mùa đông Samaccan đến những cánh đồng,

triền núi, thành phố Việt Nam. Cuộc đời giang hồ của chim bồ nông, “trời lạnh thì xuống phương

nam, khi nắng ấm lại trở về miền bắc trái đất” chính là hình ảnh biểu tượng về nhịp cầu nối tình

thân giữa các vùng đất, các dân tộc.

Tác giả Lí Biên Cương khi viết Nguyên và Thùy đã bày tỏ khát vọng khám phá những không

gian mới. Bé Thùy với tình yêu đất mỏ đã tự hào giới thiệu với Nguyên về khu nhà ở của mình với

các loại cây leo kín sườn đồi: Hoa tigôn đỏ tươi, hoa phượng rụng đỏ mặt nước xanh ngắt, rồi còn

có cả một loài cây không rõ tên nhưng nó nở không biết cơ man nào hoa trắng… Những ngôi nhà

san sát, một không gian lấm đầy bụi than nhưng ban đêm lại lấp lóa ánh điện như lạc vào một vùng

ánh sáng… Tất cả những điều ấy quả là lạ lẫm với Nguyên – cậu bé vốn đã gắn bó với vùng quê, với

dòng sông nước ngọt mát như đường có ba nhánh chảy về ba ngã cùng những con cá mắt đỏ như ớt

chín, với những cánh đồng lúa thẳng tắp có những cánh cò tốp đỏ như lửa, những gò đống toàn cỏ

mật, cỏ gà, cỏ ngấp ngo… Rồi những mùa bèo tây, những mùa hoa súng cánh trắng nhị vàng nằm hờ

trên mặt nước, những vườn nhà có rất nhiều cánh cam có bộ quần áo xanh biếc… Không khí dịu

dàng, thân thương và thi vị ấy đã làm nên một không gian mơ ước trong cô bé Thùy. Ước muốn về

quê nảy nở trong lòng Thùy. “Trong óc Thùy đã hiện lên con đường về quê. Con đường đất núi đỏ

như son, lượn vắt ngang từng eo đồi…”. Giấc mơ xuất hiện như là những nét phác họa cho không

gian mơ ước ấy. Trong giấc mơ, Thùy đã cùng cô ong chúa về quê. Hành trình ảo ấy đã đưa em hội

ngộ với thế giới thần tiên. “Quê hương Thùy kia rồi. Ở đấy có con sông nước ngọt như đường, có

những chiều cong veo gọng vó cất cá, có những trưa mò ra đầm ngắt hoa súng, con thuyền thúng

tròn như cái nong xoay xoay mãi trên những gợn sóng lăn tăn…”. Không gian ấy là tiếng vọng của

tấm lòng trẻ thơ gắn bó với quê hương và thích khám phá cuộc sống.

63

Ngoài những không gian trên thì không gian tâm lí là một nét mới của văn học thiếu nhi hiện

đại. Đây là không gian làm nên đặc trưng của văn học thiếu nhi giai đoạn này. Với nhiệm vụ xây

dựng con người chức năng, truyện kể dân gian không xây dựng không gian này. Chúng ta chỉ có thể

tìm thấy không gian tâm lí trong mảng tác phẩm trữ tình của văn học dân gian như ca dao, hát ru mà

thôi. Đến văn học hiện đại, cùng với việc nhìn nhận con người trong mối quan hệ đa chiều của cuộc

sống và trong sự phong phú của diện mạo tâm hồn, không gian tâm trạng hình thành. Không gian nội

cảm ấy sẽ bị chi phối bởi tâm lí của nhân vật và cũng sẽ chuyên chở xúc cảm của nhân vật.

Xuân Quỳnh khi viết Trời xanh của mỗi người cũng đã xây dựng thành công không gian ấy.

Cũng là bầu trời nhưng với những điểm nhìn khác nhau lại hình thành những không gian thẩm mĩ

khác nhau. Bầu trời xanh của bà chỉ giới hạn trong ô vuông cửa sổ, trở thành không gian hoài niệm

về chuyện cũ ngày xưa. Trời xanh của mẹ là không gian tuyến với một vệt dài tít tắp như ánh mắt

người mẹ trong những năm tháng đợi chờ chồng. Bố đang ở chiến trường, vì thế bầu trời xanh ấy bị

biến hình, trở thành hình răng cưa nhọn hoắt. Tính chất khốc liệt của cuộc chiến đã làm cho không

gian ấy bị phân mảnh, bị rách toang mà bố thì chưa kịp vá lại. Với trẻ thơ, ý niệm về không gian

bầu trời còn mông lung lắm:

Trời xanh của riêng em

Em chưa nhìn thấy hết

Dài và rộng đến đâu

Ai bảo giùm em biết?

Cùng một không gian thôi nhưng nó lại có nhiều không gian phái sinh. Nhưng tất cả các

không gian ấy đều gặp nhau trong sắc xanh tâm lí, tạo nên không gian bao la của niềm tin, của tình

yêu và khát vọng.

Trong những tác phẩm văn xuôi, khi nhà văn chú tâm đến nội tâm nhân vật thì không gian

tâm lí có tần số xuất hiện thường xuyên hơn. Con người tự nó cũng là một không gian. Người bà

trong truyện ngắn Bà nội của Duy Khán cũng là một không gian nhân vật làm người đọc rưng rưng

xúc cảm. Bờ vai mỏng tanh của bà là dấu ấn của cái nghèo đói, cái vất vả của kiếp người. Bà tồn tại

trong không gian lớn của làng quê như một cái bóng, lặng lẽ, không ai biết đến sự hiện diện của

không gian này. Những câu ca xưa vọng lại trong lời hát ru của bà là tiếng vọng của một không gian

tâm tư trĩu nặng:

“Trèo lên cây khế nửa ngày

Ai làm chua xót (a…) lòng mày khế (à…) ơi….

Cái bống là cái bống bình

Thổi cơm gánh nước (a…) một mình bống (à…) ơi”

Những câu hát ru buồn vợi ấy chính là những khoảnh khắc bà hóa thân vào không gian của

cây khế, cái bống bình… để thấm trải sâu hơn nỗi cô đơn, vị chát chua của cuộc đời. Chính vì thế

mà khi bà mất, không gian tự nhiên đã được tâm trạng hóa để phụ họa với nỗi đau của lòng người.

Giời mưa phùn gió bấc, đường qua đồng trắng toát khăn tang, trắng một màu buồn rợn. Ba gian nhà

gianh gió lùa. Mấy cái ống tre ngoài hiên khóc vu vu cả ngày lẫn đêm tưởng như lời ru của bà còn

vọng lại. “Trèo lên cây khế nửa ngày…”.

4.3. KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC THIẾU NHI

TIÊU BIỂU

64

4.3.1. Không gian nghệ thuật trong Dế Mèn phiêu lưu kí

Dế Mèn phiêu lưu kí là một thiên đồng thoại thi vị dành cho thiếu nhi mà nhà văn Tô Hoài

sáng tác khi vừa mới bước khỏi tuổi thiếu niên. Trong hình hài của một truyện dài, Dế Mèn phiêu

lưu kí thực sự giàu có về không gian. Câu chuyện không cố định lại trong một khung thẩm mĩ mà

đã mở ra nhiều khoảng trời mới. Nhìn tổng quát thì câu chuyện đã phát triển cùng với việc chuyển

đổi không gian nghệ thuật. Ở đây, không gian đời thường được đặt trong mối quan hệ đối lập với

không gian phiêu lưu. Chú Dế Mèn đã thực hiện hành trình phá bỏ không gian quen thuộc, thanh

bình nhưng tù túng, nhàm chán hằng ngày để dấn thân vào con đường mới với nhiều thử thách và

hiểm nguy.

Mới đầu, không gian truyện bị thu hẹp trong một cái hang của Dế Mèn ở bờ ruộng. Dế Mèn

cũng đã có những giây phút khoan khoái, tự hào vì được sống một mình ở một nơi mát mẻ, thoáng

đãng, nên thơ với “cỏ non xanh rờn, nước bạc mênh mang, nắng vàng rải lên cây, vàng một màu

tươi lạ lùng” ấy. Nhưng cũng trong chính không gian này, Dế Mèn đã trở nên hống hách, hung

hăng, ngông cuồng dẫn đến cái chết thương tâm của Dế Choắt. Khi đứng trước nấm mộ của người

hàng xóm tội nghiệp, Dế Mèn đã lặng đi trong bài học đường đời đầu tiên. Phút ân hận ấy hứa hẹn

sự đổi thay trong tính cách nhân vật.

Sau một sự cố bất ngờ, bị trở thành trò chơi cho trẻ con, Dế Mèn buộc lòng phải rời xa nơi ăn

chốn ở thân thuộc, bị giam vào cái lồng tre vốn để đựng châu chấu, có cửa với then gài chắc chắn.

Không gian vốn nhỏ hẹp ngày càng thu hẹp hơn đã nói lên cuộc sống mòn mỏi, tù túng của nhân

vật. Trong cái “lồng tù” ấy, nhân vật chính của truyện đã quay trở lại tâm tính ngông nghênh dạo

trước. Chỉ đến khi bị bác Xiến Tóc trừng phạt, Dế Mèn mới thực sự tỉnh ngộ. Phút thức tỉnh ấy đã

mở ra một không gian khác: Con đường trở về nhà. Trở về nhà giờ đây không phải là trở về với

không gian tầm thường, tù túng ngày trước mà cốt là để thăm lại những người thân, để chuẩn bị cho

việc phá vỡ không gian đời thường và bước chân vào con đường phiêu lưu. Đi bởi mặt đất này bao

la lắm, không chỉ là cái bờ ruộng, đầm nước quê mình. Mèn không thể cứ nhìn trời, nhìn đời qua

khe cỏ ấu như trước được. Mèn không muốn cho đến lúc nhắm mắt vẫn phải ân hận vì chẳng biết

cuối cánh đồng mênh mông kia còn những gì lạ và cuộc đời ở đấy ra sao. Hơn nữa, “đời trai mà

không biết bay nhảy, không biết đó đây thì cuộc sống sẽ nhạt nhẽo lắm”. Và ngay lập tức không

gian truyện đã có sự dịch chuyển. Không gian phiêu lưu đã mở ra và đó là cuộc phiêu trong ước

muốn chứ không phải là cuộc phiêu lưu bất đắc dĩ như lần trước.

Giã từ không gian quê nhà bình yên nhưng tù túng, Dế Mèn bước chân vào không gian tha

hương. Mỗi bước chân là mỗi đổi thay. Mỗi thời khắc lại gặp một cảnh mới. Bao vùng quê mới lạ

với bao phong tục tốt đẹp, bao con đường đầy thử thách và hiểm họa đã xuất hiện. Những cánh

đồng lớn, những bãi hoang, những dòng sông xinh đẹp với hai bờ cỏ xanh non tươi, những quãng

nước mênh mông hun hút chẳng thấy bờ chỉ thấy sóng nối nhau nổi lên như trái núi trước mặt, xóm

bùn lầy nước đọng ở trong cù lao, những cánh rừng cỏ may… Đôi bạn ấy đã trải qua những đêm trời

trở gió, chơ vơ giữa trời nước, đã từng đi mịt mờ dưới bóng hoa may với một màu trắng bàng bạc,

xam xám… Không gian liên tục thay đổi, càng lúc càng mở rộng tạo nên bức tranh liên hoàn của

hành trình phiêu lưu. Tô Hoài đã xây dựng không gian cản trở, rất đúng với tính chất của truyện

phiêu lưu. Không gian ấy đã tạo điều kiện cho Dế Mèn nảy nở và phát triển những tố chất mới. Trên

mỗi chặng đường đời, Dế Mèn đã phải thay đổi cách nghĩ, thay đổi tính cách để phù hợp với hoàn

cảnh sống.

65

Tuy nhiên, đã có lúc trên hành trình phiêu lưu ấy, Dế Mèn buộc phải quay trở lại với không gian

ngày xưa. Cái khoảng không chật hẹp, tù đọng ấy đi từ bờ ruộng quê hương, vào lều cỏ của ẩn sĩ Xiến

Tóc, vào hang chim Trả. Đó đều là những không gian bé tí, đối lập hoàn toàn với cái rộng lớn của đất

trời. Để nhân vật gặp lại không gian này chính là ý đồ của nhà văn. Ngôi chùa tại gia của ẩn sĩ hay cái

hang âm thầm bóng tối của chim Trả là những điểm xoáy trong tâm thức của Dế Mèn, buộc nhân vật

đẩy cao hơn khát vọng giải thoát, cởi trói mình khỏi sự bó buộc của hoàn cảnh để đến với chân trời tự

do. Chính vì thế mà Dế Mèn đã không che giấu được niềm vui của mình khi sắp thoát khỏi hang chim

Trả: “Ngày mai mình thoát chốn này ư? Ôi chao, lại sắp thấy trời xanh, lại thấy ánh sáng, ánh sáng

vàng những tia nắng. Anh em lại gặp nhau. Sao cái đêm chờ đợi lê thê, dài đến là dài”.

Sau hành trình phiêu bạt, đã từng lạc vào xứ sở của Đại vương ếch Cốm, vào thành lũy hiểm

hóc của họ nhà Kiến, Dế Mèn đã thực hiện được lí tưởng của mình. Một thế giới hòa bình, đại đồng

đã được thiết lập. Không gian đã được gắn kết bởi những người bạn đồng tâm. Không còn ai thấy lẻ

loi và cô đơn cả. Chỉ còn là niềm vui, là sự đầm ấm. Như vậy là sự thay đổi không gian trong thiên

truyện này đã góp phần rất lớn thực hiện thông điệp thay đổi cuộc sống nhàm chán, quẩn quanh để

vươn đến một thế giới đại đồng, lấp lánh những lí tưởng sống cao đẹp.

Truyện khép lại với hành trình trở lại quê nhà của Dế Mèn. Tưởng như không gian truyện sẽ

quay trở lại điểm xuất phát. Nhưng không gian cũ mà con người thì đã lột xác. Bây giờ chú đã có

thể thư thái lòng, “nằm duỗi chân nhìn lên qua khe cỏ ấu, thấy mảnh trời biếc như ước vọng đời

mình đương bay xa”.

Mô tả hành trình phiêu lưu của Dế Mèn qua nhiều không gian như vậy, nhà văn Tô Hoài

muốn gửi đến thông điệp: Tuổi trẻ phải có những lí tưởng đẹp, không được bằng lòng với cuộc sống

tầm thường, chật hẹp mà phải biết khám phá cuộc sống rộng lớn và phải hướng đến xây dựng một

thế giới đại đồng.

4.3.2. Không gian nghệ thuật trong Những tấm lòng cao cả

Tác phẩm Những tấm lòng cao cả – “thiên trường ca cảm động về nghề dạy học” của

Edmondo de Amicis đã có lúc không được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Tuy nhiên, cuối cùng thì

bạn đọc cũng công nhận rằng đây là một tác phẩm đã đạt đến chiều sâu của tư tưởng nhân văn với

sự nâng cánh của nghệ thuật. Với mục đích khẳng định thật chính xác chất vàng ròng của tâm hồn

con người, nhà văn đã đặt họ vào trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Mỗi hoàn cảnh là một thử

thách, là một gương soi để nhân vật đối diện với chân ảnh tâm hồn. Có thể chia kết cấu của truyện

theo ba tuyến truyện kể: Tuyến truyện kể về những sự việc hằng ngày, tuyến truyện đọc hằng tháng,

tuyến truyện của những bức thư. Cùng với ba tuyến truyện này, không gian truyện đã được mở ra

ngày càng rộng lớn về biên độ, càng phong phú về các vùng thẩm mĩ.

Trong mảng truyện kể về những sự việc hằng ngày, không gian sinh hoạt đời thường chiếm vị

trí trung tâm. Mảng truyện này đã khắc họa rất thành công chân dung của nhân vật trong quan hệ

với không gian gia đình, trường học, đường phố, làng quê, nhà hát, quảng trường… Đây là những

không gian thân thuộc, là nơi mà các nhân vật gắn bó máu thịt. Gia đình là bờ bến bình yên, là điểm

dừng chân ấm áp và đầy tin yêu của trẻ. Nhà hát, sân khấu là nơi ngập tràn tiếng hát, tiếng vỗ tay, là

không gian của ngày hội, là nơi tôn vinh những tấm lòng vàng… Thế giới đồng quê là một món quà

thi vị dành cho các bạn nhỏ. Ngày đầu tiên đến trường, cậu bé Enricô đã không dứt ra khỏi nỗi nhớ

thôn quê. Và những ngày được đến với không gian thanh bình này với đồng bằng mênh mông, với

mạch núi Anpi xanh biếc và đỉnh phủ tuyết lập tức đã trở thành ngày hội đối với các cậu học sinh bé

66

bỏng. “Chúng tôi chạy qua các bãi cỏ lên các ngọn đồi. Mát quá, bóng rợp, xanh um! Chúng tôi

lăn trên cỏ, nhúng mặt xuống các dòng suối cho mát, nhảy qua các hàng rào”.

Tiêu điểm của không gian nghệ thuật đời thường, nơi quy tụ rất nhiều mối quan hệ của nhân

vật chính là trường học. Đây là không gian đầy chất thơ, thứ chất thơ dịu ngọt kết tinh từ bao thanh

âm diệu kì. Là tiếng giảng bài của thầy cô, là tiếng khóc của trẻ, tiếng dỗ dành của cô giáo, là

khoảng im lặng tưởng như ngôi trường đang bị bỏ không, là niềm vui như ong vỡ tổ cuối giờ tan

học, là những băn khoăn, lo ngại và những nụ cười của các bậc cha mẹ khi đứng đợi con ở cổng

trường. Ở đó còn có phòng chờ là nơi gắn kết các bậc phụ huynh…. “Trường học đã họp những

người có chút ít với những người không có chút ít, làm thành một gia đình với nhau”. “Ngôi nhà

quét vôi trắng tầm thường ấy với những cửa chớp đóng kín, khu vườn rợp bóng cây” đang ươm

chứa biết bao tuổi thanh xuân và biết bao niềm hi vọng. Đây là chiếc nôi của tình yêu thương thầy

trò, bè bạn, là điểm hẹn của bao ước mơ, là nơi được mọi người hướng đến với bao thiện cảm. Bà

mẹ của Enricô đã không ngần ngại so sánh rằng: “Trường học là một bà mẹ hiền…”. Ngày từ biệt,

bố của Enricô đã run run nhìn ngôi trường để nói lời từ biệt. Còn Enricô đã xúc động đến không thể

nói lên được một lời.

Truyện đọc hàng tháng trước hết là sự làm mới lại không gian đời thường. Làm mới bằng

cách kiến tạo những nhân vật mới, những số phận mới đi kèm với những nét tính cách mới trong

một không gian vốn đã gần gũi đến thân thuộc. Đó là căn phòng nhỏ, nơi “Cậu bé viết thuê người

Phirenzê” đã âm thầm làm việc bao đêm với lòng chứa chan tình yêu và hạnh phúc để kiếm những

liza cho bố và gia đình. Đó là bệnh viện Napôli – chứng nhân cho lòng nhân từ của cậu bé có gương

mặt trái xoan đẹp, nước da nâu nhạt, đôi mắt trầm tư. Những người bệnh đang hấp hối, tiếng khóc

vô vọng của những người thân, những cảnh sầu thảm và đau thương của cuộc đời bệnh viện không

làm cho cậu bé sợ hãi. Khung cảnh ấy đã trở thành thứ thuốc rửa mầu nhiệm làm hiện lên chân ảnh

của một trái tim đầy tình yêu. Cậu đã luôn luôn ở đấy, lo ngại và hồi hộp dõi theo từng hơi thở và

từng cái nhìn của người ốm.

Bên cạnh đó, những truyện đọc hàng tháng cũng đã mở ra những không gian mới lạ. Không

gian chiến trận được tạo dựng trong truyện đọc “Cậu bé đánh trống người Xácđênha”. Là những

bức tường lỗ chỗ vết đạn. Là những mái ngói nát vụn, những mảnh gỗ và bụi thạch cao tung tóe. Là

những người lính quằn quại trong đau đớn và tuyệt vọng. Màn thảm, sàn nhà đẫm những máu.

Những xác chết nằm sóng sượt giữa các ngưỡng cửa. Những bộ mặt biến dạng, những tiếng thét man

rợ của quân Áo… Màu sắc dữ dội và đau thương của cuộc chiến đã rượt đuổi con người từ không gian

nhỏ là ngôi nhà cho đến không gian rộng lớn hơn là cánh đồng. Sự chuyển đổi hai lớp không gian ấy

đã hiện thực hóa hành trình chuyển đổi về tâm hồn và thân phận của một con người. Chú bé đánh

trống ấy đã vượt qua cánh đồng hương mạch với sự “vuốt ve” của quân Áo với những làn đạn mù trời.

Cổ họng khát nước tưởng như chết đi được. Máu đã đỏ tươi hình hài bé nhỏ. Nước mắt đã nhỏ ra, cậu

đã “khóc như điên”. Nhưng đó là nước mắt của nỗi lo lắng không đưa kịp mảnh giấy xin viện binh, lo

cho sự ra đi của một người lính nào đấy. Không gian chiến trận là thử thách lớn cho niềm kiêu hãnh

về dòng giống anh hùng của đứa con nhỏ bé của đất Ý.

Những câu chuyện kể hàng tháng cũng đã mở ra những không gian biểu trưng và không gian

tâm trạng. “Người y tá của Tata” khép lại với hình ảnh “Rạng đông của hửng sáng”. Hình tượng

không gian ấy biểu trưng cho sự phát sáng của không gian tâm linh, của một trái tim nhân hậu vừa

hoàn thành xong “sự nghiệp nhân từ, cao thượng” của mình. Và khi “Máu nóng người Rômanha”

mở ra, chúng ta lại được đối diện với một không gian đầy tâm cảm. Ngôi nhà của Pherucsiô im lặng

67

hơn thường lệ, nằm bơ vơ giữa đồng không mông quạnh, giữa những đám ruộng dâu bát ngát. Mưa

rơi, gió rét. Mưa và gió thổi hắt vào các cửa kính, còn màn đêm thì tối như mực. Có ánh sáng đấy

nhưng chỉ là thứ ánh sáng hắt hiu từ ngọn đèn dầu nhỏ. Không gian bóng tối ấy đã bao phủ lên vạn

vật che giấu hành vi của những kẻ giết người. Màu đen ấy cùng với màn mưa nặng hạt cũng đã tạo

khung cảnh buồn thương, ảm đạm cho một bi kịch. Lúc Pherucsiô lấy thân mình che chở cho bà

khỏi nhát dao của tên giết người thì “gian phòng tối như mực”. Đó là không gian tang tóc, không

gian của những bất hạnh. Để cho bóng tối bao trùm lên câu chuyện là dụng ý nghệ thuật của người

kể. Bởi không gian ấy sẽ làm nền cho sự phát sáng của một nhân cách, một tâm hồn cao cả.

Mỗi một bức thư là một dòng chảy của tâm trạng. Chính vì thế, lôgic của hiện thực khách

quan đã bị lôgic của tâm lí, tình cảm phá vỡ. Đây là điều kiện để kĩ thuật đồng hiện không gian phô

diễn. Sự dán ghép các mảnh không gian đã tạo nên thế giới đa chiều, có khả năng soi rọi chân dung

tâm hồn nhân vật ở nhiều góc độ. Người bố, người mẹ của Enricô – chủ nhân của những bức thư đã

đứng ở hiện tại để thực hiện những hành trình ngược về không gian trong quá khứ và hướng đến

tương lai. Họ đã dẫn dắt Enricô vận động qua nhiều không gian để có được thức nhận sâu sắc về

con người, thế giới. Bức thư có tựa đề “Ngoài đường phố” của bố xuất phát từ sự kiện Enricô va

phải một bà đi đường. Người bố đã tái hiện lại hình ảnh con mình những lúc ở nhà, lúc con rất cân

nhắc mọi cử chỉ, việc làm… để khiển trách sự bất cẩn của Enricô khi đi lại trên đường. Bên cạnh đó,

người bố còn phác họa những không gian mới đi kèm với tình huống mới để hướng Enricô đến cách

xử sự nhân văn. Bức thư khép lại với những lời khuyên Enricô hãy giữ lấy tình yêu, sự gắn bó với

không gian con đường thành phố – nơi gặp gỡ những bàn chân và cả những tấm lòng. Bởi lẽ, “trong

thành phố ấy, con đã đi những bước đầu tiên do bàn tay thận trọng của mẹ con dìu dắt; con đã học

ở đấy những năm tháng đầu tiên, ở đấy con có được những người bạn đầu tiên của con. Hãy yêu

thành phố của con, yêu các phố phường và nhân dân trong thành phố…”. Khi buồn lòng về cách trả

lời với bố của Enricô, người mẹ cũng đã viết thư, đã đưa em đến với một không gian tưởng tượng.

“Con hãy nghĩ đến cái ngày… cái ngày mà nằm trên giường bệnh sắp chết, bố cho gọi con lại mà

nói: Enricô, bố vĩnh biệt con… Bấy giờ con sẽ thấy bao nhiêu biến đổi xảy ra chung quanh con. Cái

nhà này sẽ trống trải như thế nào với mẹ tội nghiệp của con mặc toàn màu đen…”. Trong không

gian tưởng tượng ấy, Enricô có cơ hội thấy rõ hơn tấm lòng của người bố, người đã giấu em tất cả,

trừ lòng nhân hậu và tình yêu thương. Con đường về không gian quá khứ cũng đã được thông lối

như là minh chứng bền vững cho tấm lòng người bố. Đã bao lần bố vào buồng con khi con đang

ngủ. Căn buồng ấy đã bao lần chứng kiến hình ảnh bố tay cầm ngọn đèn cứ đứng nhìn ngắm con để

tìm lại niềm tin, niềm vui giữa cuộc sống mệt nhọc.

4.3.3. Không gian nghệ thuật trong tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa

Góc sân và khoảng trời đã tạo nên những lớp không gian đa dạng, phong phú. Trong tập thơ

tồn tại cả không gian bầu trời lẫn không gian mặt đất, không gian vũ trụ lẫn không gian xã hội… Tất

cả đã làm nên một thế giới nghệ thuật muôn màu, muôn sắc. Trong đó, không gian nghệ thuật trung

tâm của tập thơ Góc sân và khoảng trời chính là không gian làng quê. Rất hiếm khi Trần Đăng

Khoa để cho thơ mình chạy ra khỏi môi trường này. Làng quê đã trở thành nơi ẩn náu bình yên

nhưng cũng rất quyến rũ của một hồn thơ bé nhỏ. Trong mênh mang cảnh sắc nông thôn mộc mạc

ấy, Khoa dành nhiều tâm tư cho không gian nghệ thuật “góc sân”, một không gian đặc trưng cho

nền “văn minh thôn dã”, không gian có vị trí đặc biệt đối với đời sống tâm linh người dân quê. Nhà

thơ Xuân Diệu đã phát hiện ra ý nghĩa đặc biệt của không gian này khi nhận định rằng: “Cái vũ trụ

68

tí hon ấy như lòng đỏ trứng gà”. Với Khoa, không gian nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc này là một thế

giới diệu kì của tuổi thơ. Góc sân ấy là điểm tựa để em nhìn ra thế giới:

Góc sân nho nhỏ mới xây

Chiều chiều em đứng nơi này em trông

Thấy trời xanh biếc mênh mông

Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy

Từ khoảng không gian này, Khoa đã thả tuổi thơ bay lên cùng với ánh trăng đêm rằm, bay lên

cùng với cái diệu kì của đất trời… Và cũng tại nơi đây đã chứng kiến bao sinh hoạt của con người và

loài vật. Đó là cảnh những chú gà con liếp nhiếp đi tìm mồi cùng mẹ (Gà con liếp nhiếp), cảnh thôn

xóm vào mùa với chiếc máy tuốt lúa mở miệng cười ầm ầm, với thóc vàng óng một màu no đủ, với

ấm chè nóng thơm hương lúa đồng đang cùng ông trăng và các đội bình công mừng một mùa bội

thu (Thôn xóm vào mùa). Góc sân ấy cũng trở thành sân khấu để tiếng trống chèo sâu vợi, tiếng mõ

đưa hương hoa đại len vào tâm tư con người (Cô Thị Mầu).

Tuổi thơ luôn bị mê hoặc bởi những trò vui. Niềm hân hoan của chú bé Khoa nhỏ tuổi cũng

vút lên từ góc sân nhỏ với bao sinh hoạt hấp dẫn:

Em thường rải cái nong

Ra góc sân ngồi học

Những đêm có trăng mọc

Em chơi cho đến khuya

(Cái sân)

Trong hồn nhiên của thế giới trẻ thơ, Trần Đăng Khoa luôn lấy cái sân làm địa điểm diễn ra

mọi trò chơi. Nào là trò xỉa cá mè, trò mèo đuổi chuột, trò hứng nước mưa… Ở đấy, em đã chạy

nhảy tung tăng, đã múa hát say mê quanh ông trăng đêm rằm. Lắm lúc sân cũng trở thành nền bản

vẽ để trẻ phác họa lên những bức tranh về cô tiên, về đồng lúa chín…

Không phải ngẫu nhiên mà Khoa viết nhiều về góc sân. Đối với người dân quê Việt Nam nói

chung, đối với những trẻ thơ chưa bao giờ vượt khỏi lũy tre xanh như Khoa thì đây là không gian

thân thuộc, gắn bó như là máu thịt. Bao nhiêu sinh hoạt của người dân quê, bao nhiêu trò chơi của

trẻ nhỏ đều gắn với địa điểm này. Chính không gian này cũng là nhịp cầu đưa trẻ đến với những

không gian rộng lớn hơn.

Càng ngày thơ Trần Đăng Khoa càng mở rộng không gian nghệ thuật và đó đều là những

khoảng không gian thấm đượm hồn quê Việt Nam. Đến với thơ Khoa, ta được ngắm nhìn những

mảnh vườn quê hương ở nhiều giác độ khác nhau. Là vườn cải tốt tươi, “lá xanh như mảnh mây trời

lao xao” khi gió đến (Vườn cải). Là khu vườn “dậy tiếng dịu hiền” từ vị ngọt của luống cà, rãnh

khoai, từ âm thanh của tiếng lá vẫy gió trong những đêm “lấp ló trăng lên” (Vườn em). Là mảnh

vườn xanh biếc tiếng chim, rộn rã trong tiếng dơi khua lúc chạng vạng, nên thơ trong hình ảnh ông

trăng vàng dạo chơi dưới lùm nhãn (Hương nhãn). Rồi khi thu về lành lạnh ta lại được nghe “Vườn

sau nổi gió nghe như mưa rào” (Đêm thu) v.v…

Với hình ảnh con đường – nơi giữ sự liên thông giữa những không gian của mặt đất, Khoa

cũng dành cho nhiều quyến luyến. Đã có lần cậu bé này “hỏi đường” rằng:

Đường ơi, có nhớ chăng là

Ngày nào dạy học, thầy qua đường này?

69

Con đường ấy đã một thời in bàn chân thầy giáo. Vậy mà giờ đây thầy đã đi xa rồi. Bóng cây

vẫn rợp con đường mà người xưa đã vắng. Không gian con đường vì thế mà trở thành điểm nhấn

của tâm tư và hoài niệm.

Với người nông dân, cánh đồng là ngôi nhà thứ hai. Người thơ rất trẻ của chúng ta đã chín

sớm trong suy tư và cảm xúc nên đã viết về không gian này thật tinh tế. Cánh đồng Điền Trì thân

thuộc đi vào thơ mang theo tâm tình của người con quê hương:

Cánh đồng làng Điền Trì

Sớm nay sao mà rộng

Sương tan trên mũi súng

Trên sừng trâu cong veo

Cánh đồng này có in bóng hình những bác nông dân đang cày ruộng, những chị thôn nữ tát

gầu giai và cấy mạ, in bóng em chở phân ra lót ruộng… Nơi ấy có hồn nhiên tiếng cười, có bọt tung

trắng hoa nhài khi nước reo trong lòng máng, có lúa vàng trong đáy mắt, có luống cày tỏa hương, có

mây hong trên gốc rạ… Không gian này đã tạo nên một âm sắc rất riêng cho thơ Khoa bởi nó đã

chiết được mùi hương riêng cho mình. Nhớ lắm những cánh đồng nồng mùi bùn ngấu, mùi phân

đang hoai và còn hăng mùi vôi chưa tan hẳn dưới những rãnh cày. Nhớ lắm những giọt mồ hôi đang

ủ mật cho đồng lên hương, cho hạt giống bốc men trong đất. Nhớ lắm khung cảnh yên bình, đẹp tựa

bài thơ:

Đồng ẩm trăng non

Luống cày sực nức

Mưa rào bữa trước

Nắng nồng chiều nay

(Hương đồng)

Có thể nói, viết về cánh đồng quê là cuộc dạo chơi ân tình không ngừng nghỉ trong đời thơ

Trần Đăng Khoa. Trong cuộc dạo chơi này anh không phải là khách qua đường. Vị khách thơ trẻ

tuổi này dẫu bước chân có đi lạc không gian ấy thì trái tim vẫn “neo đậu bến quê”:

Sáng đứng đỉnh Côn Sơn

Hương đồng thơm trong túi

(Côn Sơn)

Tình lưu luyến ấy không có gì đáng ngạc nhiên cả. Bởi lẽ, Khoa đã thú nhận với chúng ta

rằng:

Thịt da ta cũng

Tỏa hơi ruộng đồng

(Hương đồng)

Nhắc đến không gian nông thôn trong thơ Khoa chúng ta không thể bỏ qua dòng sông Kinh

Thầy. Dòng sông này đã từ đồng bằng Bắc Bộ chảy tràn vào thơ Trần Đăng Khoa, trở thành một

vùng thẩm mĩ thi vị. Dòng “sông Kinh bên lở bên bồi” đã thực sự thăng hoa trong trang thơ Khoa.

Phù sa của dòng sông đã ngấm sâu vào thiên nhiên, để rồi cảnh vật đã trỗi dậy trong một sức sống

mãnh liệt:

Hàng chuối lên xanh mướt

70

[external_link offset=2]

Phi lao reo chập chùng

Vài ngôi nhà đỏ ngói

In bóng xuống dòng sông

(Bên sông Kinh Thầy)

Không gian này đã cùng với hương sen thơm, với lời mẹ hát, với bão tháng bảy, mưa tháng

ba, với giọt mồ hôi… để làm nên “hạt gạo làng ta”. Khoa không quên điều đó khi anh viết:

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

(Hạt gạo làng ta)

Chính vì thế mà lòng biết ơn với dòng sông đã trở thành tình cảm thường trực trong Khoa. Và

cũng bởi cái ơn sâu nặng đó nên thi sĩ đã một đời không thôi tìm kiếm bí mật về không gian này:

Sông ơi nhớ thương ai

Mà bốn mùa nước đỏ

Con chim nghiêng mắt ngó

Phù sa hồng đôi chân

(Cầu Cầm)

Những không gian trên đã tập hợp lại làm nên không khí thanh bình, yên ả ngàn đời của thôn

quê Việt Nam. Nhưng bên bến bờ bình yên ấy, gương mặt chiến tranh lại hiện về. Là tiếng bom

rùng rùng nổ trong đêm trăng tràn đầy tiếng đàn bầu, một không gian căng tràn đã “tự rung lên sức

mạnh Việt Nam”. Là hình ảnh những hố bom, những ngôi trường tốc mái… Chiến tranh còn hiện

hình trong đôi nạng gỗ bên bàn thầy giáo, bên mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi, bên cả những bài

học dang dở… Nhưng đó chỉ là phông nền làm hiển hiện và thăng hoa một không gian khác – không

gian của sự sống và niềm tin. Hàng cau đã ngã xuống nhưng tiếng đàn bầu vẫn tuôn trào vô tận như

những suối nguồn mát trong để xóa đi những âm thanh dơ bẩn của cuộc chiến. Hình ảnh cánh diều

vươn cao ngạo nghễ bên bờ hố bom là một sự tương phản rất đẹp của không gian nghệ thuật, thể

hiện được sức sống vĩnh hằng của con người:

Tiếng diều vàng nắng

Trời xanh cao hơn

Dây diều em cắm

Bên bờ hố bom

(Thả diều)

Ngoài ra, Góc sân và khoảng trời cũng đã đưa đến cho người đọc những khoảng không gian

tâm lí giàu sức biểu cảm. Con người là một thực thể tồn tại trong không gian. Nhưng tự bản thân

con người cũng là một thế giới, một không gian với những chiều kích và tính chất riêng. Ý thức

được điều ấy nên Trần Đăng Khoa luôn có thiên hướng khai thác không gian con người với bề sâu

tâm hồn. Câu thơ:

“Nắng mưa từ những ngày xưa

Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”

71

đã làm chúng ta xúc động. “Nắng mưa” vốn là không gian của vũ trụ đã được xã hội hóa

thành một không gian gợi nhớ những vất vả, khó nhọc. Không dừng lại ở đó, “nắng mưa” còn thâm

nhập vào không gian con người, tạc nên vóc dáng, hình hài chứa đầy nhọc nhằn của người mẹ. Từ

“lặn” đã cụ thể hóa sự di chuyển của không gian biểu trưng vốn rất trừu tượng ấy.

Bàn chân của thầy giáo trong bài thơ cùng tên cũng là một không gian như thế. Ẩn sau một

bàn chân đã mất ấy là âm vang của chiến trường, của sự hi sinh lặng lẽ. Đằng sau hình hài không

hoàn hảo ấy là cả một tấm lòng rạch ròi những yêu thương, hờn ghét, là cả một lẽ sống cao đẹp.

Chính vì thế mà “bàn chân thầy, bàn chân đã mất, vẫn dẫn chúng em đi trọn cuộc đời”. Đứng trước

bàn chân ấy, những thế hệ học trò đã ngỡ ngàng nhận ra được cái chưa hoàn hảo của chính cuộc đời

mình.

Góc sân và khoảng trời, tựa đề của tập thơ đồng thời cũng đã mở ra hai thế giới đối lập. Đối

lập giữa không gian mặt đất nhỏ bé với không gian bầu trời rộng lớn. Đối lập giữa không gian thân

thuộc với khoảng xa vời, vô tận. Nhưng đó chỉ là sự đối lập bề ngoài của không gian thực. Còn

trong ý nghĩa biểu trưng thì hai miền thẩm mĩ này lại tìm được mối liên thông chặt chẽ. Góc sân đại

diện cho khoảng không gian gần gũi, quen thuộc đối với trẻ thơ. Còn khoảng trời mang ý nghĩa biểu

trưng cho một chân trời trong mơ ước, cho những nơi xa rộng bao la của cuộc đời đầy hấp dẫn đang

mời gọi tuổi thơ. Chân trời ấy được kiến tạo bởi những con người có tình yêu đằm sâu với không

gian đời thường.

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG 4

I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

Xác định được khái niệm không gian nghệ thuật, các hình thức không gian nghệ thuật tiêu

biểu trong văn học thiếu nhi. Vận dụng lí thuyết để xác định, phân tích không gian nghệ thuật trong

cấu trúc văn bản nghệ thuật.

II. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP THỰC HÀNH

1. Sự khác biệt giữa không gian thần kì trong văn học dân gian với không gian thần kì trong

văn học thiếu nhi hiện đại?

2. Phân tích không gian nghệ thuật của bài thơ sau:

TRÊN HỒ BA BỂ

Thuyền ta chầm chậm vào Ba Bể

Núi dựng cheo leo hồ lặng im

Lá rừng với gió ngân se sẽ

Họa tiếng lòng ta với tiếng chim.

Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba Bể

Trên cả mây trời trên núi xanh

Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ

Mái chèo khua bóng núi rung rinh.

Thuyền ta quanh quất trên Ba Bể

72

Đỏ ối vườn cam biếc bãi ngô

… Thuyền ơi, chầm chậm chờ ta nhé

Muốn ở đây thôi chẳng muốn về!

Hoàng Trung Thông

3. Đặc trưng thi pháp đồng thoại thể hiện như thế nào ở không gian nghệ thuật của tác phẩm

Dế Mèn phiêu lưu kí?

4. Xác định không gian nghệ thuật trung tâm của tác phẩm Những tấm lòng cao cả. Không

gian ấy đã ảnh hưởng gì đến quá trình phát triển tính cách của nhân vật Enricô?

III. GỢI Ý GIẢI BÀI TẬP

1. Trong văn học dân gian, không gian thần kì là sản phẩm của tư duy, thế giới quan huyền

thoại. Còn trong văn học hiện đại, không gian ấy chỉ là một thủ pháp nghệ thuật. Do đó, mật độ xuất

hiện của không gian thần kì trong văn học thiếu nhi hiện đại không thường xuyên và dày đặc như

trong văn học dân gian. Các nhà văn hiện đại dùng không gian thần kì với tư cách là một hình thức

đặc trưng của truyện kể dân gian để chuyển tải một nội dung mới, một thông điệp mới. Mặt khác,

trong không gian thần kì của văn học thiếu nhi hiện đại, nhân vật đã tạo dựng được diện mạo riêng

cho mình, với những tâm trạng, tính cách, hành động rõ ràng.

2. Không gian nghệ thuật trong bài thơ Trên hồ Ba Bể của Hoàng Trung Thông

– Ở khổ 1: Không gian êm đềm, tĩnh lặng. Thuyền thì “chầm chậm” vào Ba Bể, hồ thì “lặng

im” và núi thì “cheo leo” như muôn đời nay vẫn thế. Có gió, nhưng gió cũng chỉ ngân “se sẽ”, tuy là

động đấy nhưng cũng chỉ để khắc sâu hơn ấn tượng về cái tĩnh mà thôi. Trong không gian tĩnh lặng,

mênh mông ngàn đời ấy, con người đã hòa mình được vào nhịp sống của thiên nhiên.

– Khổ 2: Không gian tĩnh lặng ở khổ 1 được đẩy lên một trạng thái mới, gợi cảm giác tĩnh gần

như tuyệt đối. Con thuyền như rời khỏi không gian mặt nước, lướt nhẹ như bay trong bồng bềnh cõi

thần tiên của mây trời và núi xanh. Trong không gian siêu thoát ấy, khung cảnh thiên nhiên thật kì

diệu. Ba từ láy tượng hình: Bồng bềnh, lặng lẽ, rung rinh chỉ gợi những cử động rất khẽ, rất nhẹ.

Như vậy là ở khổ thơ này, không gian thực đã được thay thế bằng không gian ảo, cõi trần đã chuyển

sang cõi tiên. Sự chuyển đổi ấy đã nói lên được vẻ đẹp diệu kì của hồ Ba Bể, nơi gặp gỡ của cõi hư

và cõi thực.

– Khổ 3: Đến khổ thơ này, không gian lại quay về với cuộc sống đời thường. Vườn cam đỏ ối,

bãi ngô xanh biếc – những cảnh tượng thân thuộc và bình dị ấy đã nhắn nhủ mọi người rằng, Ba Bể

dẫu có vẻ đẹp của cõi tiên nhưng đó vẫn là cảnh thực, là món quà mà tạo hóa đã ban tặng cho trần

gian.

3. Dế Mèn phiêu lưu kí là một thiên đồng thoại thi vị. Dấu ấn đồng thoại đã thâm nhập vào cả

bình diện không gian nghệ thuật của tác phẩm. Dẫu nhà văn đã thực hiện thao tác nhân cách hóa

nhân vật để rút ngắn cự li giữa nhân vật đồng thoại với cuộc sống nhưng không gian nghệ thuật vẫn

giữ nguyên đặc trưng của thể loại. Thống trị tác phẩm vẫn là một thế giới tự nhiên sinh động, thế

giới của cỏ cây, loài vật… Đó chính là môi trường sống của con vật, cây cỏ, của những vật vô tri.

Thế giới ấy rất gần gũi, thân thuộc với trẻ thơ. Tất nhiên, thế giới ấy thực chất là việc mô hình hóa

xã hội loài người mà thôi. Sự kết hợp tư duy huyền thoại và tư duy hiện thực cũng đã cho ra đời hai

tính chất không gian tương ứng. Đã rất nhiều lần Tô Hoài xây dựng không gian bao la, không cản

trở để phục vụ cho hành trình phiêu lưu, thực hiện lí tưởng của Dế Mèn.

73

4. Những tấm lòng cao cả kết cấu theo ba tuyến rất rõ ràng và đã có sự xê dịch của không

gian nghệ thuật trong các tuyến truyện. Tuy nhiên, không gian trung tâm vẫn là trường học. Học

viên chú ý đến vai trò của không gian trường học và ảnh hưởng của không gian này đến nhân vật

chính của tác phẩm.

IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Edmondo de Amicis, Những tấm lòng cao cả, Nxb Văn học, Hà Nội, 2004.

2. Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu kí, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1999.

3. Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Trần Hoàng…, Đồng dao và trò chơi Việt, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội, 1997.

4. Trần Đình Sử, Tuyển tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004.

5. Nguyễn Ngọc Thuần, Cha và con và… tàu bay, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.

6. Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2005.

Học viên có thể tham khảo thêm các bài: Đề tài nông thôn rộng lớn và phong phú (Văn

Trọng); Thiên nhiên, một kho tàng vô tận (Vũ Tú Nam); Thiên nhiên trong thơ viết cho các em (Vũ

Đình Minh) (Tập 1); Tài năng miêu tả của Võ Quảng (Vũ Tú Nam); Những trang sách bình dị về

thiên nhiên tươi đẹp (Vương Trí Nhàn); “Tuổi thơ im lặng” – Kỉ niệm về một tầng văn hoá làng quê

lâu đời (Trần Đình Sử),… (Trong Văn học thiếu nhi Việt Nam (Nghiên cứu, lí luận, phê bình, tiểu

luận – tư liệu) (Vân Thanh biên soạn); tập 2, Nxb.Kim Đồng,

Hà Nội, 2003).

74

Chương 5

CỐT TRUYỆN TRONG VĂN HỌC THIẾU NHI

5.1. KHÁI NIỆM CỐT TRUYỆN, CỐT TRUYỆN TỰ NHIÊN, CỐT TRUYỆN NGHỆ

THUẬT

5.1.1. Khái niệm cốt truyện

Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện; nó bao gồm các giai đoạn phát triển

chính, một hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo

thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm văn học, nhất là

đối với các sáng tác thuộc các loại tự sự và kịch.

5.1.2. Đặc điểm của cốt truyện

– Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi loại tác phẩm văn học. Với tác phẩm trữ tình

thì thường không tồn tại cốt truyện.

– Cốt truyện thường gồm hai phương diện gắn bó hữu cơ : Vừa là phương tiện bộc lộ tính

cách, vừa là phương tiện để nhà văn bộc lộ các xung đột xã hội.

– Nhìn chung cốt truyện có thể chia làm hai loại: Đơn tuyến (như trong truyện cổ dân gian hay

một số truyện ngắn) và đa tuyến. Trong Dế Mèn phiêu lưu kí, bên cạnh tuyến cốt truyện chính về

Dế Mèn, còn có các tuyến cốt truyện khác về Dế Trũi, Xiến Tóc, chim Trả, quần thể nhà Mối, Châu

Chấu,…

– Cơ sở chung của mọi cốt truyện xét đến cùng là những xung xã hội được khúc xạ qua các

xung đột nhân cách. Nhưng xung đột xã hội không phái là cốt truyện. Xung đột xã hội là cơ sở

khách quan, là đối tượng nhận thức, phản ánh; còn cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của cá

nhân nhà văn.

5.1.3. Các thành phần chính của cốt truyện

Cốt truyện đầy đủ thường có 5 thành phần chính sau đây:

– Trình bày: Còn gọi là mở đầu hay khai đoạn, có nhiệm vụ giới thiệu bối cảnh câu chuyện diễn ra

(hoàn cảnh xã hội, thời gian, địa điểm, nhân vật,…). Trong truyện Người đi săn và con vượn (Lép Tôn Xtôi), đó là đoạn giới thiệu về bác thợ săn thiện xạ, “nếu con thú rừng không may gặp bác thì hôm

ấy coi như ngày tận số”. Với truyện ngắn Bên Hồ Hàm Nguyệt (Phạm Thị Kim Nhường), mở đầu

chính là phần giới thiệu về một tục lệ có từ thuở xa xưa của làng “Tôi” : Khi tròn mười lăm tuổi,

những cô gái trong làng đều được đi rửa mặt bằng nước hồ Hàm Nguyệt của chùa Huyền Không khi

hồ tràn ngập ánh trăng rằm tháng giêng và nói lên điều nguyện ước của mình. Tin vào tục lệ đó, hai

chị em “tôi”, sau gần bốn năm xa quê, giờ trở về làng để chuẩn bị thực hiện nghi lễ thiêng liêng

này.

– Thắt nút: Là sự xuất hiện các sự kiện đánh dấu điểm khởi đầu của một quan hệ, một xung

đột tất yếu sẽ tiếp tục xảy ra, phát triển. Ở Người đi săn và con vượn, thắt nút chính là sự kiện người

đi săn xách nỏ vào rừng, phát hiện một con vượn mẹ lông xám đang ngồi ôm con trên tảng đá và

ông đã nhẹ nhàng rút mũi tên bắn trúng vượn mẹ. Thắt nút của truyện Bên Hồ Hàm Nguyệt chính là

75

sự kiện cô bé tên Tâm sang chơi với chị Ngàn và phần giới thiệu về cuộc đời cô gái đẹp nết đẹp

người nhưng “đôi mắt không thấy gì ngoài bóng tối”.

– Phát triển: Là toàn bộ các sự kiện thể hiện sự triển khai, vận động của các quan hệ và mâu

thuẫn đã xảy ra. Đây là phần dài nhất của cốt truyện, thường bao gồm toàn bộ các sự kiện từ sau

thắt nút đến sự kiện trước đỉnh điểm. Tính cách của nhân vật chủ yếu được xác định trong phần này.

Nhân vật được đặt trong nhiều cảnh ngộ khác nhau, xung đột được triển khai trên nhiều bình diện.

Trong truyện Người đi săn và con vượn, đó là các sự kiện vượn mẹ trúng tên, hướng ánh nhìn

căm giận về phía người đi săn, tay vẫn không rời con. Trong khi đó, người thợ săn vẫn đứng im chờ

thu nhận kết quả. Còn trong truyện Bên Hồ Hàm Nguyệt, phần phát triển chính là đoạn đối thoại

giữa “tôi” với chị Ngàn, khung cảnh làng quê yên bình, nên thơ trong đêm Nguyên tiêu, cảnh đoàn

người tấp nập lên chùa Huyền không làm lễ,…

Ở phần phát triển, tác giả trình bày hàng loạt sự kiện, mâu thuẫn được khai thác tận mọi khía

cạnh của nó, xung đột của cốt truyện được triển khai trên nhiều bình diện, các nhân vật được đặt

vào những cảnh ngộ khác nhau nhất với những thử thách căng thẳng qua không gian, thời gian. Từ

đó cốt truyện bước vào đỉnh điểm.

– Cao trào (còn gọi là đỉnh điểm): Là sự kiện thử thách cao nhất, tột cùng đối với nhân vật dẫn

đến bước ngoặt lớn trong sự phát triển của cốt truyện và đưa đến chấm dứt sự phát triển. Đỉnh điểm

thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn, nhưng từ đây câu chuyện đi theo hướng được giải

quyết.

Cao trào của truyện Người đi săn và con vượn là sự kiện đầy cảm động: Vượn mẹ, trước khi

chết, đã nhẹ nhàng đặt con xuống, vơ vội nắm bùi nhùi gối lên đầu con, rồi nó hái cái lá to, vắt sữa

vào và đặt lên miệng con. Với Bên hồ Hàm Nguyệt, đó là điều ước lạ lùng của chị Ngàn về một may

mắn, một phép màu sẽ đến với mẹ của… một chị gái cùng làng! Điều này khiến cho Tâm phải “giật

mình” và vô cùng “ngạc nhiên”.

Cả hai sự kiện đỉnh điểm trên đây đã gây nên những chấn động rất lớn cho tâm hồn nhân vật trong

truyện cũng như người đọc. Từ đó, nó chuẩn bị cho những thay đổi phù hợp cả về lô gic vận động, phát

triển của hiện thực khách quan lẫn lô gic tâm lí, hành động của con người.

Nếu cốt truyện của tác phẩm nhằm tái hiện trực tiếp cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội

đối lập thì đỉnh điểm chính là sự kiện đánh dấu sự phát triển của mâu thuẫn đạt đến độ căng thẳng

nhất, đòi hỏi giải quyết tức khắc theo một chiều hướng nhất định.

– Mở nút (còn gọi là kết thúc): Là sự kiện quyết định kề ngay sau cao trào. Nó là sự xóa bỏ

xung đột, nhưng không phải bao giờ cũng xóa bỏ mâu thuẫn. Tất cả các quá trình từ nỗi xúc động,

ăn năn chân thành của người thợ săn, đến việc ông bẻ gãy nỏ, lẳng lặng quay về và từ đó không bao

giờ đi săn nữa; việc để chị Ngàn thổ lộ lí do khiến mình thực hiện một điều ước không giống ai, đến

sự cảm phục của “tôi” trước tấm lòng của chị để rồi thích thú nghĩ về điều ước mình sẽ thực hiện

trong đêm rằm tháng giêng năm sau được xem là phần mở nút. Sau những sự kiện của hai phần này,

xung đột, mâu thuẫn của hai truyện không còn nữa.

Những phần kết thúc của các tác phẩm cụ thể cũng hết sức đa dạng. Có kết thúc đánh dấu sự

giải quyết trọn vẹn xung đột được miêu tả trong tác phẩm (thường gặp nhất trong các truyện cổ dân

gian, truyện Nôm,…) Lại có kết thúc tuy đánh dấu sự xoá bỏ xung đột, xác định tính cách và số

phận của nhân vật, nhưng mâu thuẫn vẫn có thể tiếp tục căng thẳng hoặc chưa bị xoá bỏ hoàn toàn

(chẳng hạn, kết thúc của hai truyện ngắn Tí bụi và Ả ìa âu? của Quế Hương).

76 [external_footer]

Xổ số miền Bắc