KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT – Tài liệu text

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT- THI

PHÁP HỌC

I.

[external_link_head]

KHÁI NIỆM VÀ TÍNH CHẤT CỦA KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT.

1.Khái niệm không gian nghệ thuật:

Trong cuốn Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê lí giải về không gian như sau: “Không gian là khoảng

không bao la trùm lên tất cả sự vật hiện tượng xung quanh đời sống con người”.

Theo cách hiểu của Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Không gian nghệ thuật

là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó”.

Và Trần Đình Sử lí giải thêm: “không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại cùng thế giới

nghệ thuật” và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con

người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống”.

Không gian nghệ thuật được tác giả xây dựng dựa vào không gian có thật và những

quan niệm về không gian sinh hoạt trong cuộc sống. Hơn nữa, mỗi nhà văn sẽ thể hiện không

gian khác nhau tùy hoàn cảnh thông qua ngôn từ để làm sao có thể thể hiện được cái nhìn của

họ.

Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Đó là

không gian tồn tại, sinh hoạt của nhân vật, là bối cảnh để nhân vật thể hiện tính cách, suy

nghĩ, hành động,…Không gian nghệ thuật còn là nền, cảnh cho những sự kiện…

2. Tính chất của không gian nghệ thuật:

Không gian nghệ thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian

khách thể. Không gian vật chất tồn tại khách quan, tức là không phụ thuộc vào ý

thức con người còn không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của tác giả

nhằm biểu hiện cách nghĩ về thời gian, quan niệm nhân sinh, thái độ sống của

cuộc đời.

Không gian nghệ thuật một mặt miêu tả hiện thực, có dáng dấp của hiện

thực đời sống nhưng mặt khác nó mang tính hình tượng, là phương tiện nghệ

thuật.Ví dụ khổ thơ trong bài “Đây Thôn Vỹ Dạ” của nhà thơ Hàn Mặc Tử:

“Sao anh không về chơi thôn Vỹ

1

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Hình ảnh thôn Vỹ Dạ hiện lên trên màu xanh mơn mởn của hoa lá vườn ai

và màu nắng tươi nhuộm lên hàng cau thẳng tấp. Không gian thôn quê trong mắt

thi nhân thật dịu dàng và tươi mát. Trên nền thiên nhiên xanh mát ấy, người con

gái xứ Huế mộng mơ hiện ra với vẻ đẹp e ấp và cổ kính làm lòng thi nhân xao

xuyến. Tất cả cảnh đẹp ấy như mời gọi, như trách móc rằng Thôn Vỹ Dạ đẹp

như vậy, nên thơ như vậy “sao anh không về chơi…”. Rõ ràng chúng ta thấy,

phong cảnh thiên nhiên mộc mạc của xứ Huế thật đẹp, thật dịu dàng song cái

phong cảnh hữu tình ấy lại mang trong lòng thi nhân một nỗi sầu nhân thế.

Không gian nghệ thuật mang tính quan niệm. Không gian nghệ thuật

gắn liền với điểm nhìn của tác giả, nó gắn liền với cảm xúc mang ý nghĩa nhân

sinh. Thông qua việc miêu tả không gian nghệ thuật ta hiểu được suy nghĩ, quan

điểm của tác giả đối với nhân vật, đối với các sự việc.Ví dụ trong tác phẩm

Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.

“Những cánh đồng trở thành đô thị, những cách đồng ngoa ngoắt thay đổi

vị của nước, từ ngọt sang mặn chát, những cánh đồng vắng bóng người và lúa

rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa nghẽn trong bùn quánh giờ đang

vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng đó đã hắt hủi cây lúa ( và gián

tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu hẹp dần.”

Đây là đoạn trích miêu tả sự đổi thay của những cánh đồng hoang hóa.

Không gian về cánh đồng gắn liền với sự buồn tủi và cay đắng của hai chị em

Nương và Điền. Những cánh đồng gắn liền với những ngày vất vả mưu sinh mà

khi đi qua họ khó lòng mà trở lại, vì sự đổi thay của đất khiến cho lúa hoang sơ,

bầy vịt không có chốn nương thân hay vì sự thay đổi của lòng người, mà khi đi

qua những cách đồng họ không mong có thể trở lại? Cảm nhận được sự thay đổi

của cánh đồng và con người ta lại bỏ cánh đồng đi tìm những con đường mưu

sinh khác. Sự vận động của xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

làm cho những cánh đồng thu hẹp dần, đó là sự vận động tất yếu. Dưới con mắt

của tác giả, chính con người đã quay lưng lại với cánh đồng quê mình.

2

Như trong “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm: Đây là không gian vào buổi chiều hoàng

hôn, dưới cái nắng nhạt nhòa. Là khoảnh khắc con người đối mặt với cuộc chia li đầy bịn rịn,

thổn thức:

“ Đưa người ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng.

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?”

Ngoài ra không gian nghệ thuật còn là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn

và thể hiện cách nhìn của tác giả cho nên sự sắp xếp, tạo dựng không gian nghệ

thuật thiên về sự chủ quan trong trong cảm xúc của nhà văn.Tinh thần chiếm

lĩnh không gian trên cao, không gian vũ trụ được thể hiện tập trung trong bài thơ

“Tràng Giang” của Huy Cận. Cảm hứng của bài thơ là cảm hứng không gian:

“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”

Không gian được mở ra với một dòng sông rộng mênh mông, muôn vàn

đợt sóng và triền miên nỗi buồn:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”

Từ dòng sông không gian được mở rộng theo chiều dọc “con thuyền xuôi

mái nước song song”, chiều ngang “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” mà chiều nào

dường như cũng không có giới hạn. Rồi từ hai chiều của không gian mặt phẳng,

tác giả mở ra chiều thứ ba của không gian:

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Một không gian ba chiều sừng sững mở ra nhiều hướng theo ánh mắt nhìn

ngắm và chiêm nghiệm của thi nhân.

Không gian mở ra là một con đường vạn dặm, với những trắc trở, ghập

ghềnh. Nó ghi lại ấn tượng của một miền rừng núi thật khắc nghiệt và thật dữ

dội.

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

3

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

(Tây Tiến_Quang Dũng)

Cảnh rừng núi hiểm trở với “dốc lên khúc khuỷu” với “heo hút cồn mây”,

với độ cao thấp đến choáng ngợp của “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

thế mà hình ảnh của sự sống vẫn chợt hiện ra như thế cân bằng “Nhà ai Pha

Luông mưa xa khơi”.

Không gian nghệ thuật mang tính hình tượng cao, chủ yếu tái hiện không

gian tinh thần. Do đó tìm hiểu không gian nghệ thuật phải biết nắm bắt cảm xúc,

thái độ của người thể hiện. Đồng thời phải hiểu được ý nghĩa hình tượng của nó,

bởi vì không gian là hình thức tồn tại của hình tượng.

Ví dụ: Trong tác phẩm “Chí Phèo”của nhà văn Nam Cao, không gian nông

thôn làng Vũ Đại cũng như bao ngôi làng khác ở nông thôn Việt Nam trong thời

kỳ thuộc địa nửa phong kiến, bao trùm lên những số phận con người. Những địa

chủ phong kiến, những người tá điền quanh năm làm lụng quần quật, bị ức hiếp,

bị chà đạp đến nỗi tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Nói đến nông thôn những

năm 0969756783 là nói đến những bần cùng và khổ cực khi đó con người phải đối

diện với cái nghèo, cái đói, cay đắng hơn là những biến chất và tha hóa của con

người. Cái lò gạch cũ hiện lên trong suy nghĩ của Thị Nở – một người phụ nữ dở

hơi, biết đâu đó trong cái lò gạch cũ ấy, một Chí Phèo nữa lại tiếp tục với một

vòng đời cay nghiệt khác.

II.

NGHIÊN CỨU THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT:

1. Quan niệm không gian của các tác giả qua từng thời kì văn học:

1.1. Quan niệm không gian của các tác giả văn học dân gian:

4

1.1.1. Không gian thực:

Không gian thực trong văn học dân gian chủ yếu là truyền thuyết và ca dao

thường gắn liền với địa danh cụ thể.

Không gian nghệ thuật trong ca dao – mở ra một không gian thực tại gần

gũi quen thuộc hơn bao giờ hết. Không gian trong ca dao là không gian của

đồng quê Việt Nam bình dị và thân thương với bến nước, gốc đa, sân đình, con

đò,…Đó là nơi sinh hoạt, lao động của người dân, nơi các chàng trai, cô gái thôn

quê gặp mặt, hẹn hò:

“Thuyền về có nhớ bến chăng,

Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.”

“Trăm năm dù lỗi hẹn hò,

Cây đa bến cũ con đò khác xưa”

“Ta về ta tắm ao ta,

Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”

Ở những câu ca dao trên xuất hiện hình ảnh không gian “thuyền”, “bến”,

“cây đa”, “con đò”, “ao” đây là hình ảnh ta có thể bắt gặp ở bất cứ nơi đâu trên

[external_link offset=1]

mọi miền quê hương đất nước. Những không gian quen thuộc đó cho ta thấy

tình cảm gắn bó với làng quê của người nhân dân ta. Cho dù trong bất cứ hoàn

cảnh nào, cảm xúc ra sao thì phong nền của nó vẫn là chốn làng quê thân thuộc,

nghĩa tình.

Tuy nhiên cũng có lúc không gian ấy vượt ra trở nên rộng lớn kì vĩ hơn, đó

là hình ảnh của thiên nhiên đất nước:

“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.”

“Rủ nhau xem cảnh kiếm hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.”

“Đài nghiêng, tháp bút chưa mòn

5

Hỏi ai gây dựng nên non nước này?”

Qua những câu ca dao như vậy ta thêm tự hào về vẻ đẹp của quê hương đất

nước. Tuy nhiên những câu ca dao như thế là chưa nhiều, những bài ca dao về

quê hương còn hạn hẹp. Đó là một mặt hạn chế trong sáng tác ca dao việt nam,

nhưng đó cũng là điều dễ hiểu , bởi lẽ từ xa xưa đồng bào ta luôn gắn liền với

quê hương làng xã và ít khi xa làng quê của mình nên khó có cái nhìn toàn cục.

Xét ở một khía cạnh khác, ta cũng thấy không gian tồn tại trong ca dao là

không gian vật lý và không gian tâm lý. Không gian vật lý là không gian có thật,

là nơi con người sinh sống và lao động, đó chính là khung cảnh của làng quê

Việt Nam. Và thường thì trong ca dao giao duyên không gian mà ta thấy là

không gian ngoài trời không phải không gian trong nhà:

“Hỡi cô tát nước bên đàng,

Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.”

“Hôm qua tát nước đầu đình,

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.”

“Em ôm bó mạ xuống đồng,

Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai.”

“Bên đàng”, “đầu đình” hay “xuống đồng” chính là không gian tồn tại thật

gắn với cuộc sống lao động nhưng đồng thời đó cũng là không gian của tình

yêu, là nhịp cầu nói trái tim của những chàng trai và cô gái.

Trái với không gian vật lý là không gian tâm lý, không gian của trạng thái

tâm hồn con người, để giải bày tâm trạng:

“Đưa nhau giọt lệ không ngừng,

Ngó sông, sông rộng, ngó rừng, rừng cao”

“Một mình, mình một bơ thờ,

Dựa cây, cây ngã, dựa bờ, bờ xiêu.”

Không gian trong ca dao dù được cảm nhận theo phương diện nào thì đó là

6

những khung cảnh gần gũi, thân thuộc và bình dị của làng quê Việt Nam, cho

thấy sự gắn bó với quê hương, mọi cảm xúc đều được in dấu trên mảnh đất quê

hương mình.

Không gian nghệ thuật trong truyền thuyết – luôn mang tính cụ thể, xác

định. Không gian trong truyền thuyết là những địa danh có thực, là không gian

lịch sử, gắn liền với nhân vật và sự kiện lịch sử, gắn liền với thời gian lịch sử

xác định. Nó đồng thời là những không gian thiêng, trường tồn cùng với sự bất

tử của nhân vật lịch sử. Núi Tản Viên hóa chốn non thiêng vì gắn liền với tên

tuổi Sơn Tinh – vị anh hùng trị thủy, cũng là một vị thần của việt Nam. Sông

Bạch Đằng trở thành địa danh lịch sử khi gắn liền với tên tuổi Ngô Quyền khi

đánh quân Nam Hán. Gắn với thời đại Đông A, khi Trần Hưng Đạo cùng vua tôi

nhà Trần đánh đuổi giặc Mông – Nguyên. Truyền thuyết đã tạo nên những cặp

sánh đôi: không gian lịch sử – nhân vật lịch sử.

Có thể kể, đất Mê Linh – Hai Bà Trưng, Gò Tháp (Đồng Tháp) – Thiên Hộ

Dương, Thất Sơn huyền bí (An Giang) – Quản Cơ Trần Văn Thành,…

Như vậy, không gian thực trong văn học dân gian là không gian sinh hoạt

gắn liền với cuộc sống của nhân dân. Đó cũng là không gian của những nơi gắn

liền với những chiến công hiển hách, những thành tựu mà các bậc anh hùng,

danh nhân đã đạt được.

1.1.2 Không gian ảo:

Những tác phẩm văn học dân gian là những suy nghĩ hồn nhiên, là tình cảm chân thật của

những con người lao động hàng ngày. Bởi thế cái nhìn mang tính quan niệm của họ cũng rất đơn

giản, ít phức tạp hơn so với các giai đoạn sau – khi tư duy con người đã phát triển ở mức cao. Đặc

điểm chung của không gian văn học trong những sáng tác dân gian là mô hình ba tầng, ba cõi:

Thượng giới, trần gian và địa ngục với thần linh, người, ma quỷ. Ở đó, con người có thể tự do đi lại

trong ba cõi mà ít gặp sự trở ngại nào. Đó chính là tính chất tôn giáo của không gian nghệ thuật trong

văn học dân gian bởi vì tín ngưỡng tôn giáo

là một phần trong đời sống tinh thần của nhân dân cho

nên nó đi vào truyện kể dân gian như một lẽ tự nhiên. Chính vì vậy không gian kì ảo được xem là môi

trường tồn tại, môi trường sinh hoạt khác để họ gửi gắm những tâm tư tình cảm nguyện vọng trong

đời sống thường ngày.

Thông qua các thể loại như truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại… của văn học dân gian ta

dễ dàng nhận thấy được không gian kì ảo của mỗi tác phẩm rất đậm nét mang một sắc thái riêng của

từng thể loại chẳng hạn như :

7

Không gian truyện cổ tích: Đắm mình trong thế giới truyện cổ tích là sự say đắm trong những

giấc mơ ngọt ngào của người xưa, là ước mơ về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc không còn những

áp bức bất công. Ở đó, con người có thể tự do hoạt động, tự do di chuyển mà không gặp trở ngại, và

luôn có sự giúp đỡ của lực lượng thần kì, siêu nhiên. Chính vì thế mà đã có những phương tiện đi lại

kì diệu như: chiếc thảm bay, đôi hài bảy dặm, nồi cơm ăn mãi không hết, viên ngọc quý giúp nghe

được tiếng nói

của muôn loài và có thể rẽ nước đi xuống biển (Dã tràng),…không gian kì ảo

là những ước mơ, khát vọng của con người. Ở đó có hạnh phúc và sự bất tử (Từ

Thức), có những vật báu kì diệu đem lại hạnh phúc (cây đàn trong “Thạch

Sanh”), có vàng bạc châu báu đem lại sự giàu sang (hòn đảo trong “Cây khế”),

… Nói chung là ở thế giới kì ảo con người có thể tìm được tất cả những điều tốt

đẹp, sung sướng mà họ không bao giờ có được ở thế giới hiện thực không những

vậy theo quan niệm của các tác giả dân gian không gian kì ảo còn là là thước đo phẩm chất của

con người. Chính vì vậy không gian kì ảo là nơi chứa đựng những ước mơ giàu sang, hạnh phúc của

con người cho nên không phải ai cũng có thể đến được không gian đó. Chỉ có những người đã qua

thử thách, bộc lộ được phẩm chất tốt đẹp, trung thực, dũng cảm thì mới đến được không gian kì ảo,

được đền đáp, và có kết thúc có hậu: vì cứu được Thái tử con vua Thủy Tề mà Thạch Sanh đi xuống

Thủy cung, nhận được phần thường là cây đàn thần kì… Những biểu tượng không gian đó mang tính

chức năng, đó là môi trường thử thách để ban thưởng hoặc trừng phạt nhân vật.

Không gian thần thoại: Không gian có tính chất đặc thù là tính nguyên sơ, hoang dã của nơi

xuất phát đầu tiên của sự kiện (như trời đất chưa phân, trời sụp phía Đông Nam…). Điều này có thể lí

giải bởi: thần thoại là một trong những thể loại văn học sớm nhất của loài người, “nó ra đời vào thời

kì thơ ấu của con người và một đi không trở lại” (K.Mark). Lúc đó, vũ trụ chỉ là cõi hồng hoang, âm u,

lạnh lẽo vắng bóng dáng con người: “Ban đầu vũ trụ là một cõi hỗn độn, mờ mịt, tối tăm, lạnh lẽo. Từ

cõi hỗn độn ấy, Thần Trụ Trời xuất hiện, ông lấy đầu đội trời lên cao và dùng chân đạp đất thấp

xuống” (Thần trụ trời).

Không gian sử thi: Nền tảng của không gian sử thi là không gian thần thoại có tính chất hư ảo,

kì diệu, không gian thay đổi theo ý thức của thần linh.

Ví dụ như trong sử thi “Đẻ đất đẻ

nước” một tác phẩm kì vĩ, vì từ đầu đến cuối nó nói lên mối quan hệ qua lại giữa thế giới trần gian

và thế giới thần linh hay trong sử thi “Đăm Săn” đó là không gian khi Đăm Săn chiến đấu với Mtao

Mxây với sự mách bảo của ông trời để giết chết Mtao Mxây.

Dù các yếu tố kì ảo trong mỗi thể loại có cái riêng nhưng nhìn chung trong

tất cả các thể loại đều mang một sắc chung đó là có không gian kì ảo xoay quanh

ba tầng , ba cõi, các tác phẩm dân gian giúp thỏa mãn nhu cầu lý giải hiện tượng

trong tự nhiên và trong đời sống của người dân khi tư duy con người lúc bây giờ

còn đơn giản.

1.2. Quan niệm không gian của các tác giả văn học trung đại:

8

Nhìn chung quan niệm về không gian trong văn học trung đại cũng có

nhiều nét đồng nhất với quan niệm không gian của văn học dân gian. Song, quan

niệm không gian của các tác giả văn học trung đại được đề cập nhiều góc cạnh

hơn, xuất hiện dày đặc hơn trong từng tác phẩm.

1.2.1.Văn học trung đại miêu tả khá dày đặc không gian tưởng tượng

kì ảo:

Không gian vũ trụ vẫn là không gian cơ bản và chiếm ưu thế trên văn đàn

văn học trung đại Việt Nam.

Con người trong thời kì trung đại hình dung thế giới là “thiên hạ”, đất nước

“sơn hà”, “giang sơn”…Đối với họ không gian vũ trụ là vô cùng rộng lớn, kì vĩ,

mênh mông, vô tận. Và họ cảm nhận không gian qua sự chiếm lĩnh không gian,

cái nhìn và cái cảm của bản thân trước vũ trụ. Mô hình không gian vũ trụ có thể

là 4 phía (đông, tây, nam, bắc), trước sau, trong ngoài, gần xa,…

Không gian vũ trụ tác động mạnh mẽ đến tâm hồn con người lúc bấy giờ,

đối mặt với không gian rộng lớn khiến con người cảm thấy nhỏ bé, cô độc giữa

vũ trụ vô cùng vô tận. Trần Tử Ngang đã viết lên nỗi niềm ấy khi phải đối diện

không gian rộng lớn của vũ trụ mà đối lập lại là con người cô đơn và nhỏ bé:

“Tiền bất kiến cổ nhân

Hậu bất kiến lai giả

Niệm thiên địa chi du du

Độc sảng nhiên nhi thế há”

(Đăng u châu đài ca_Trần Tử Ngang)

(Phía trước không thấy người xưa

Phía sau không thấy ai đến

Ta nghĩ rằng trời đất rộng mênh mông

Riêng ta đau lòng rơi lệ)

Chính điều này mà con người luôn khao khát chiếm lĩnh không gian:

“Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu

9

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

(Thuật hoài_Phạm Ngũ Lão)

Hình ảnh về hành động sẵn sàng chiến đấu của tráng sĩ được tô đẹp hơn khi

đặt trong không gian bao la rộng lớn của đất nước và thời giang đằng đẵng trong

suốt mấy thu. Tầm vóc của người chiến sĩ cũng vụt lớn theo tầm vóc của non

sông tổ quốc. “Ba quân” ở đây chỉ quân đội và “sao Ngưu” tượng trưng cho

thiên nhiên hùng vĩ, bao la. Sức mạnh của quân đội ta dường như át luôn cả vũ

trụ, con người chiếm lĩnh không gian rộng lớn, điều này tượng trưng cho một

dân tộc quật cường, không kẻ thù nào có thể đánh bại được.

Ngoài ra, không gian vũ trụ còn gắn với vẻ đẹp của thiên nhiên bao gồm

nhật, nguyệt, trăng, mây, núi…đó như một khoảng không gian tinh thần mà mỗi

người luôn tìm đến trong những lúc vui buồn.

“Nước biết non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”

(Báo kính cảnh giới 26)

Không gian vũ trụ của văn học trung đại chịu ảnh hưởng từ tam giáo.

Về đạo giáo, không gian mà tác giả thời kì này cho là chốn bồng lai, tiên

cảnh, với cảnh tuyệt đẹp và những thần tiên, họ cho rằng đây sẽ là nơi họ trở về

sao khi chết. Vì nó đẹp, nó thuần khiết nên đây là không gian mơ ước của nhiều

người, cho nên nó được xây dựng bằng trí tưởng tượng kì ảo với nhiều màu sắc

lung linh, tuyệt đẹp.

Về phật giáo, cuộc đời đầy bể khổ nên cứ thế con người luân thường từ

kiếp này sang kiếp khác, tùy theo nghiệp báo của từng người. Theo quan niệm

của đạo phật chốn mà loài người nên hướng đến là cõi niết bàn, chốn cực lạc,

nơi có ngài Đức phật A Di Đà. Mặc khác, trong văn học trung đại có lúc đạo

phật chiếm vị trí độc tôn (thịnh hành nhất ở thời Lý) nên đa phần thơ văn phần

lớn mang không gian phật giáo, nơi vô sanh vô tử, con người chỉ còn những

niềm vui, giải thoát.

10

Về nho giáo, không gian mang màu sắc gần gũi hơn, thiết thực hơn, gắn bó

với thực tại. Nhưng không gian đó phải nhuốm màu thanh cao, yên bình cùng

với các đạo lí, tư tưởng về cuộc sống mà con người tuân theo để hoàn thiện bản

thân.

1.2.2.Không gian thực tại trong văn học trung đại.

Không gian chốn cung đình được chú trọng

Đối tượng phản ánh trong thời kì này thường là các nhà sư, nhà nho, tầng

lớp quý tộc nên khi nhắc đến chốn cung đình thì các nhà thơ thường miêu tả sự

tráng lệ, lộng lẫy nguy nga, nơi cung vàng gác ngọc. Trong “Thượng kinh kí

sự” của Lê Hữu Trác, ông đã khắc họa lại chốn không gian phủ chúa, nơi sang

trọng, giàu sang khác hẳn đời thường:

“Cửa trời nam sang nhất là đây

Lầu vàng gác vẻ tung mây

Rèm châu, hiên ngọc, bóng mây ánh vào

Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen

Quê mùa cung cấm chưa quen

Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào.”

(Thượng kinh kí sự_Lê Hữu Trác)

Không gian làng quê, sinh hoạt của người bình dân.

Không gian chốn làng quê thường yên tĩnh và vắng lặng, không gian như

kéo rộng ra dàng trải theo nhiều phía tạo cho người đọc có cảm giác “tĩnh”,

“động” và “rộng”. Trong bài “Thiên trường vãng vọng” nhà vua như rời khỏi

không gian lầu vàng gác ngọc mà tìm về vẻ đẹp mộc mạc, chan hòa giữa chốn

làng quê. Khung cảnh huyền ảo, nhàn nhạt màu khói, nữa có nữa không bao

trùm không gian thiên trường vào một buổi chiều:

“Thôn hậu thôn điền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

11

Mục đồng nghịch lý quy ngưu tận

Bạch lộ song song quy hạ điền”

(Thiên trường vãng vọng_Trần Nhân Tông)

(Xóm trước thôn sau tựa khói lồng

Bóng chiều như có thoắt dường không

Mục đồng thổi sáo trâu về hết

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)

Không gian nhàn tản, ẩn dật

Nho gia rất chú trọng không nhàn tản, thảnh thơi…Sao bao nhiêu năm

tháng bon chen với chốn quan trường, hoặc có những người sợ chốn phồn hoa,

náo nhiệt mà tìm về nơi tĩnh lặng làng quê, lánh thế sự mà giữ cho tâm mình

thêm trong sạch, không vướng bụi trần.

Đó có thể là sự đối lập không gian giữa nơi thanh cao và phàm tục:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao.”

(Nhàn_Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Hay không gian ẩn dật, nơi vắng bóng người và sự bận rộn của khách tục,

mà kẻ thi nhân chỉ làm bạn với khách thơ:

“Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn

Khách tục không ai bén đến gần…”

(Mộ xuân tức sự_Nguyễn Trãi)

Hoặc nhà thơ hòa mình vào thiên nhiên quên đi những danh lợi, trần tục

ngoài kia, sống cuộc sống bình thường trong không gian thiên nhiên hữu tình,

tâm hồn khoái lạc:

“Côn sơn suối chảy rì rầm

12

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai

…..

Trong rừng có bóng trúc râm,

Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.

Về đi sao chẳng sớm toan,

Nữa đời vướng bụi trần hoàn làm chi?…”

(Côn Sơn ca_Nguyễn Trãi)

Không gian lữ thứ, lưu lạc

Vì nhiều lí do mà phải lưu lạc nơi đất khách quê người, để rồi gieo vào đấy

một nỗi buồn vô hạn mỗi khi nhớ về. Một không gian đối lập giữ cố hương và

tha hương, nơi quê hương ngọt ngào với nơi xa lạ:

“…Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

(Hoàng hạc lâu_Thôi Hiệu)

(Quê hương khuất bóng hoàn hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

Không gian như mênh mang, vô tận, kéo dài nỗi lòng khắc khoải của kẻ bị

lưu lạc chốn quê người, nhìn cảnh mà nhớ người, nhớ quê, nỗi đau như nhân lên

gấp bội:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Buồn trong ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trong nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

13

Buồn trong gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…”

(Truyện Kiều_Nguyễn Du)

Tấm lòng của người tha hương lúc nào cũng hướng về tổ quốc, kẻ lữ thứ

với niềm khắc khoải không yên. Trong không gian mùa thu, đêm tối, mưa rơi,

ngọn đèn đơn độc như chính con người nơi đất khách quê người:

“Thu phong lạc diệp ky tình tứ

Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn”

(Thu dạ khách cảm_Nguyễn Trãi)

(Gió thu lá rụng xào xạc gợi nỗi niềm lữ thứ

Đêm mưa đèn xanh leo loét khiến khách chiêm bao)

Không gian tâm trạng nỗi niềm của con người trước thực tại

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Mỗi khi con người có những nỗi niềm tâm sự thì cảnh vật xung quanh như

hòa chung vào sắc thái ấy. Không gian tâm trạng là khoảng không gian gắn với

nội tâm của con người, chiều sâu suy tư, cảm xúc, đó có thể là không gian mênh

mông, cô đơn, sầu vắng… như chính tâm trạng của chủ thể đang đối mặc. Như

trong bài “Dạ Vũ” của Trần Minh Tông dường như có một nỗi buồn vô hạn lẫn

khuất trong không gian, nó làm cho đêm dài hơn, ngày không sáng được, ngọn

đèn chưa tắt hòa cùng với không gian của đêm vào thu, mưa rơi rả rít. Một nỗi

niềm của một nhà vua tự hối hận về sai lầm của mình trong quá khứ:

“Thu khí hòa đăng thất thự minh

Bích tiêu song ngoại đệ tàn

Tự tri tam thập niên tiền thác

Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh”

14

(Dạ Vũ_Trần Minh Tông)

(Hơi thu hòa vào ngọn đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai

Giọt mưa trên tàu lá chuối xanh ngoài cửa sổ tiễn canh tàn

Tự biết sai lầm của mình ba mươi năm trước

Đành ôm nỗi sầu ngồi nghe mưa rơi)

Nỗi sầu xa cách, nỗi buồn nặng trĩu tâm tư, trong cuộc chia ly, xa cách con

người ta vẫn hướng về nhau nhưng càng tìm nhau trong khoảng không gian

mênh mông họ lại càng không thể thấy được nhau, không gian như đẩy họ ra xa.

Trong cuộc chia ly, không biết có ngày gặp lại hay không? Có chăng là “vĩnh

biệt” khi người chồng ra trận, để rồi đôi vợ chồng chia ly trong không gian

nhuốm màu buồn đau, tan tác:

“Cùng trong lại mà cùng chẳng thấy,

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

Tình chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”

(Chinh Phụ Ngâm_Đặng Trần Côn)

Đứng trước thực tại xã hội ngày càng trở nên rối ren, luân thường đạo lý bị

đảo lộn các nhà thơ dù cho lánh đời nhưng vẫn sống trong đời nên vẫn không

thể tránh được tâm trạng buồn đau, bao nhiêu nỗi niềm gửi vào thơ văn cho vơi

cái sầu. Ví như một Tú Xương đầy tâm trạng, “thức” trăn trở với đời, xót xa với

người, tất cả được bao trùm lên bởi không gian đêm tối:

“Nằm nghe tiếng trống, trống canh ba

Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra

Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả

Việc gì mà thức một mình ta”

(Chợt giấc_Trần Tế Xương)

15

[external_link offset=2]

Qua quan niệm về không gian của các tác giả trong văn học trung đại cho

ta thấy không gian trong tác phẩm trung đại vô cùng phong phú, qua đó nó góp

phần tạo nên nét đặc sắc riêng, cái hay và cái đẹp mà không thể lẫn vào đâu

được trong kho tàng văn học Việt Nam.

1.3. Quan niệm không gian của tác giả văn học hiện đại:

Trong Thi pháp học hiện đại, không gian nghệ thuật có vai trò rất quan

trọng trong việc sáng tác và phê bình tác phẩm. Yếu tố này đã góp phần tạo nên

thế giới hình tượng sinh động và phong phú. Nó không chỉ thể hiện thế giới vào

các tác phẩm mà còn biểu đạt những cảm thức, những quan niệm của người viết.

Do sự đổi thay trong quan niệm về xã hội, cá nhân, hoạt động của con

người mà không gian nghệ thuật trong văn học đã thay đổi. Bên cạnh việc kế

thừa các kiểu không gian nghệ thuật ở các giai đoạn trước, ở giai đoạn này

không gian nghệ thuật đa dạng và phong phú hơn.

Với các tác giả văn học hiện đại, không gian nghệ thuật mang tính khái

quát cao, phạm vi phản ánh rộng lớn. Đó là toàn bộ đời sống xã hội – không gian

của con người phải vật lộn với cuộc sống đầy sóng gió.

Không gian mang tính xã hội với hình ảnh của con đường là người đi,

không gian được mở rộng theo từng bước chân của khách bộ hành.

“ Đường qua mấy phố Quy Nhơn

Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần



Đường lên xứ lạ Kon Tum

Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao

Đường lên Đắc Sút, Đắc Pao

Đèo leo ngon thác, cầu treo mặt ghềnh



Đường lên đỉnh núi Đắc Lay

Heo heo gió lạnh, sương dày vắng chim .”

16

(Tiếng hát đi đày – Tố Hữu)

Không gian nghệ thuật mang tính cá nhân, văn học trong thời đại này đã đi

sâu phản ánh cuộc sống, số phận của từng cá nhân, trong mối quan hệ hữu cơ

với cuộc sống nhân dân. Vì vậy không gian văn học mang đậm dấu ấn cá nhân.

Đến với các tác giả Thơ mới, chúng ta được đắm chìm trong những không gian

cá nhân nhỏ hẹp, quẩn quanh bế tắc.

Với Xuân Diệu thì không gian luôn gắn với tình yêu và nỗi buồn. Những

vần thơ của ông thể hiện một khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng một tình yêu

chân thành, khát vọng về cuộc đời và con người:

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

Để linh hồn ràng buộc với muôn dây

Hay chia sẽ bởi trăm tình yêu mến.”

( Cảm xúc )

“Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực!

Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài!

Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi vai!

Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!

Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng

Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng:

Gần thêm nữa! Thế vẫn còn xa lắm!”

( Xa cách )

Với Chế Lan Viên lại là không gian nghệ thuật đầy hư ảo mộng mị cùng

những tiếng rỉ rên …

“ Trời hỡi trời! Hôm nay tôi chán hết

17

Những sắc màu, hình ảnh của trần gian”

( Tạo lập)

“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh

Một vì sao trơ trọi cuối trời xa

Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh

Những ưu phiền đau khổ với buồn lo.”

( Những sợi tơ lòng)

hay lạc vào không gian của những cơn say trong thơ Vũ Hoàng Chương:

“Hãy buông lại gần đây làn tóc rối,

Sát gần đây, gần nữa, cặp môi điên,

Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,

Đưa hồn say về tận cuối trời quên.”

(Quên)

Đến với Hàn Mặc Tử Ta bắt gặp một không gian của vũ trụ, của thế giới

siêu thực, của một miền “ thượng thanh khí”. Trong không gian đó có cái tôi thi

nhân trần tục với cái ta của vũ trụ, đó là một không gian riêng, hồn riêng của nhà

thơ, không giống như bao nhà thơ khác hướng đến thiên đàng..

“Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng

Chơi vơi trong khí hậu chin tầng mây

Ánh sáng lại sẽ tan vào hư lãng

Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say”

( Hồn lìa khỏi xác )

“Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng

18

Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi”

( Say trăng )

Về lại chốn quê bình yên thơ mộng trong thơ Nguyễn Bính với hoa cỏ may,

giậu mồng tơi, những đàn bướm lượn vòng, những ngày mưa xuân cùng nụ cười

mong mùa xuân của tình yêu:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy”

Khi tình yêu lỡ dở không thành, không gian mưa xuân ấy lại mang

một nỗi buồn đến tái tê:

“Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày”

(Mưa xuân )

Hay còn đâu đó chốn không gian bồng lai tiên cảnh của Thế Lữ. Một không

gian thoát li hiện thực đầy chất thơ, vô cùng trong sáng không vướng bụi trần.

Trong không gian ấy hiện lên vẻ đẹp của những nàng tiên nga, ngọc nữ múa

lượn trong tiếng đàn, tiếng duối vang dội lung linh, có suối trong giếng ngọc…

“Mây hồng ngừng lại sau đèo,

Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.

Trời cao xanh ngắt – Ô kìa!

Hai con hạc trắng bay về bồng lai…

Theo chim tiếng sáu lên khơi

Lại theo dòng suối bên người Tiên nga:

Khi cao, vút tận mây mờ

Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh

19

Êm như lọt tiếng tơ tình

Đẹp như ngọc nữ uốn mình trong không”

( Tiếng sáo thiên thai)

Hay ta cũng có thể bắt gặp một không gian nên thơ, êm ái, dịu nhẹ mang vẻ

đẹp đậm chất cổ điển, sang trọng, mực thước qua vần thơ của Huy Cận. Đó có

thể là một không gian buồn với những phút giây trôi qua chậm chạp, như ngưng

đọng và rơi rụng như giọt mưa ngoài hiên, làm đờ đẫn cả tâm can, làm lang

thang chân bước. Đó là một nỗi sầu vô cớ, một nỗi sầu lang thang không nhà

cửa, không quán trọ, không phương hướng, sầu dọc sầu ngang trước một không

gian mênh mông vô tận.

“Đêm mưa làm nhớ không gian,

Lòng run thêm lạnh nổi hàn bao la…

Tai nương giọt nước mái nhà,

Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn.

Nghe đi rời rạc trong hồn,

Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…

Rơi rơi…dìu dịu…rơi rơi…

Trăm muôn giọt nhẹ nói lời vu vơ…

Tương tư hướng lạc, phương mờ…

Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe

Gió về, lòng rộng không che,

Hơi mây hiu hắt, bốn bề tâm tư…”

( Buồn đêm mưa)

Không gian nghệ thuật càng ngày càng đến gần hơn với cuộc sống của

con người, phản ánh cuộc sống khổ cực của những con người lao động, những

số phận kém may mắn. Hình ảnh con người hiện lên với vai trò là nhân vật trung

20

tâm của bức tranh cuộc sống xã hội. Nhà văn đã bám sâu vào hiện thực cuộc

sống để phản ánh chân thật những nỗi nhọc nhằn vất vả của cuộc sống con

người trên hành trình mưu sinh và kiếm tìm hạnh phúc đầy nhọc nhằn. Tác giả

Nguyễn Minh Châu, trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, ông đã khám

phá về cuộc sống của con người ẩn sau những vỏ bọc của cuộc sống, đồng thời

là sự khám phá, phát hiện và chiếm lĩnh không gian cuộc sống, không gian nghệ

thuật theo khoảng cách gần – xa. Khi chiếc thuyền ở ngoài xa, cuộc sống hiện

lên thật đẹp giống như một bức tranh đẹp lãng mạn và thơ mộng nhưng khi nhà

văn kéo con thuyền nghệ thuật lại gần bờ để nhìn ngắm kĩ hơn, thì lại hiện lên

một bức tranh hoàn toàn đối lập với ban đầu. Nguyễn Minh Châu nhận ra rằng,

cuộc sống của con người còn rất nhiều nhữngkhó khăn, thiếu thốn, những vết

xước trong tâm hồn để từ đó với tư cách là nhà văn, người cầm bút đứng giữa

cuộc đời, ông gióng lên những hồi chuông thức tỉnh: hãy cứu lấy nhân tính của

con người.

Văn học không chỉ phản ánh đơn lẻ, rời rạc, mà nó luôn hướng tới tầm khái

quát. Từ những không gian mang đậm tính cá nhân đã được mở rộng, khái quát

thành không gian xã hội vô cùng rộng lớn. Khi nói đến không gian xã hội rộng

lớn, nó gắn liền với đặc trưng thể loại tiểu thuyết, mà thời kì văn học hiện đại

tiểu thuyết phát triển rất mạnh mẽ. Tiểu thuyết “Giông tố” của Vũ Trọng Phụng

là một bức tranh rộng lớn bao gồm nhiều cảnh sinh hoạt của nhiều nhóm người

khác nhau từ nông thôn đến thành thị trong xã hội, có rất nhiều mối quan hệ

khác nhau mà không gian được mở rộng, đa dạng. Không gian trong “Giông tố”

không mang tính chất “tĩnh” như “Việc Làng” của Ngô Tất Tố hay “chậm rãi”

như “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan. Không gian ấy vận động liên

tục, hối hả nhiều tình tiết ly kỳ, đột ngột, than phận con người đặt trong hoàn

cảnh trớ trêu, “lên voi xuống chó” với nhiều nghịch cảnh ngang trái.

Ngoài ra, để làm nổi bật không gian trong tác phẩm văn học, các tác giả đã

sử dụng không gian sáng tối để miêu tả chiều sâu, vẻ đẹp của nhân vật. Ánh

sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình

huống truyện, chuyển tải nộ dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với “Chữ

người tử tù” của Nguyễn Tuân và “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, ánh sáng và

bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nồng cốt để thu hút độc giả.

Nguyễn Tuân, Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi

21

người có một cách sử dụng thủ pháp nghệ thuật khác nhau, tạo nên những thế

giới riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.

Tình huống đặt biệt của cảnh cho chữ khi mà người cho là người tù và

người nhận lại là quản ngục. Hai nhân vật tương phản nhau, là hai khách thể đối

cưc cũng như ánh sáng và bóng tối. Không gian nghệ thuật của “Chữ người tử

tù” được xây dựng dựa trên không gian nhà tù – một trại giam tối om, khung

cảnh tràn ngập bóng tối, quạnh quẽ và tối mịt. Ánh sáng chỉ là một ngọn đèn

nhỏ leo lét, thấp thỏm tuy nhiên qua đó tác giả cũng muốn gửi gắm niềm tin về

sự thiện lương của con người. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù lẻ loi nhưng không

bao giờ tắt và nếu như có cơ hội sẽ bùng lên mạnh mẽ.

Về truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, nhà văn đã lấy bối cảnh là

một không gian phố huyện buồn tẻ. Bóng tối ngập tràn trong mắt của Liên, số

phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo khổ cũng nhạt nhòa

trong bóng tối. Đan xen giữa bóng tối buồn tẻ, u ám đó là thứ áng sáng leo lét

của ngọn đèn trên chõng hàng của chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những

hột sáng lọt qua phên từ chiếc đèn của chị em Liên. Con người hiện lên vật vờ

không số phận, không tính cách. Tất cả họ đêm về lại bắt đầu sống cuộc sống

trong bóng tối, nhưng tất cả cũng hướng tới ánh sáng, mong muốn một cuộc

sống tốt đẹp hơn. Tất cả đều mong chờ ở tương lai một cuộc sống sáng sủa hơn,

đều hy vọng có cái gì đó vực dậy cuộc sống tối tăm, tù đọng của họ, ai cũng

muốn vươn tới cái tốt, cái đẹp cho dù hy vọng đó có mong manh, bé nhỏ.

Không gian nghệ thuật trong văn học hiện đại là một phạm trù nghệ

thuật có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật, tư tưởng chủ

đề của tác phẩm.

2. Cấu trúc và biểu hiện của không gian nghệ thuật

2.1.Không gian bối cảnh

2.1.1 Không gian bối cảnh thiên nhiên:

Không gian bối cảnh thiên nhiên là những gì thuộc về tự nhiên như “mây,

gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông” …và được phát triển theo quy luật tự nhiên của

trời, đất, vũ trụ nhưng đã có sự tác động của con người điển hình như cánh đồng,

dòng sông, bờ đê.. Và dưới sự cảm nhận rất riêng và tinh tế, các nhà văn đã phản

22

ánh những điều tự nhiên ấy bằng những góc nhìn thẩm mĩ mang tính nghệ thuật

cao và tạo ra những giá trị nghệ thuật mới cho không gian bối cảnh thiên nhiên

ấy.

Không gian bối cảnh thiên nhiên gắn liền với tâm trạng của chủ thể sáng

tác và tạo một cảm hứng cho người thưởng thức lẫn người sáng tác. Khi một tác

phẩm văn chương ra đời nó đòi hỏi có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tình và

cảnh, chính những khung cảnh thiên nhiên tạo nên sự chân thật và yếu tố thu hút

người đọc. Trong bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan có viết:

“Chiều hành quân

Qua những đồi hoa sim

Những đồi hoa sim

những đồi hoa sim dài trong chiều không hết

Màu tím hoa sim

Tím chiều hoang biền biệt”

Chính những hình ảnh của hoa sim, của “ những đồi hoa sim dài trong

chiều không hết” đã tăng nên sự đau xót cho mối tình không trọn vẹn. Nếu bài

thơ chỉ viết về cuộc tình dang dở thời chiến binh thì chỉ tạo nên sự đau đớn

nhưng không chua xót, nỗi đau không hiện hữu. Nhưng khi sử dụng hình ảnh

hoa sim thì đã làm tăng tính nghệ thuật của bài thơ, hoa sim là hiện thân của tình

yêu, màu tím của nó phủ một tấm khăn tang lên tâm hồn người chồng góa vợ,

chính hình ảnh này khi đọc lên, người đọc cảm thấy niềm đau lắng sâu ở tâm

hồn, không có sự thổn thức mạnh mẽ nhưng nỗi đau trường tồn. Bài thơ đã

thành công khi khắc họa hình ảnh hoa sim gắn liền với cuộc tình, chính hoa sim

đã nói hộ lòng tác giả về ngày xưa hai đứa và ngày nay giữa “Gió sớm thu về

rờn rợn nước sông” một người nhớ một người ra đi vội vã mang theo những dấu

yêu xa rời. Không gian tím ngập trời ấy như lấy hết đi nỗi lòng người kể mà ở

từng câu, từng chữ nỗi mất mát không gì diễn tả được. Hôm nay hoa sim vẫn nở,

đồi sim vẫn chạy dài trong hoàng hôn mà người xưa đâu còn nữa. Không gian

như chết lặng bởi một sự hoang vu và cái buồn của màu tím loài hoa ấy, của

mùa thu trên cánh rừng Đông Bắc, sự tái hiện loài hoa sim trong tác phẩm ấn

23

tượng ấy mang tác phẩm tồn tại vượt qua thời gian và không gian của một bài

thơ thời kháng chiến.

Không gian bối cảnh thiên nhiên còn có tính chất dự báo cho sự xuất hiện

của một sự kiện hay một nhân vật cụ thể. Khi viết về một nhân vật hay sự kiện

sắp diễn ra thông thường các nhà văn thường đưa một số hình ảnh thiên nhiên

vào để dẫn dắt câu chuyện một cách tinh tế.

Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, để viết về cuộc nỗi loạn của Mị

trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài có viết: “ Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc

gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét càng dữ. Nhưng trong các làng Mông Ðỏ,

những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Hoa

thuốc phiện nở trắng lại nở màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu tìm man mát”

chính cái không gian Tết ấy, chính cái thời khắc đất trời đua nhau khoe sắc trên

cây cỏ là lúc mà người ta nghĩ ngay đến gia đình, nghĩ ngay đế cá nhân mình sau

những tháng ngày vất vả để chuẩn bị tận hưởng cái thời khắc vui chơi với bạn

bè, nghịch sáo với đám trai làng.. Chính Tô Hoài đã vẽ nên những sắc trời ngày

xuân rực rỡ để người ta nhớ đến đêm xuân năm ấy cũng giống đêm nay thế

những Mị bây giờ đã khác xưa. Để rồi khi đọc lên, ta có thể nghĩ ngay đến cuộc

sống trong xó cửa Mị, rồi Mị sẽ làm gì trong đêm nay khi trai gái vui chơi thâu

đêm mà Mị thì vẫn còn trẻ và muốn được đi cùng. Ngoại cảnh của đêm xuân ấy

dọn đường cho cuộc nổi loạn mà “Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát”. Và

sau đó là kéo theo hành động chuẩn bị đi chơi để sau đó bị A Sử trói vào sàn

nhà.

Không gian thiên nhiên có vai trò như một cái nền để làm nỗi bật sự kiện

và con người trong tác phẩm. Dưới ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã miêu tả cảnh

vật thiên nhiên trên phố huyện nghèo trước cách mạng tháng 8 hiện ra trong sự

hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị: “Tiếng trống

thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi

chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn

than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran

ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đặc biệt là hình ảnh bóng tối và ánh

sáng cứ trở đi trở lại như một không gian nghệ thuật rất giàu cảm xúc. Cảnh vật

thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật nhẹ nhàng, êm ả nhưng đượm buồn

24

đã gợi rất chân thực không gian nơi đây. Sâu xa hơn, nó còn gián tiếp giúp

người đọc cảm nhận thật thấm thía những diễn biến, trạng thái tâm trạng của các

nhân vật. Ở đây, ta khó cảm nhận rõ nỗi buồn từ cảnh vật thấm vào lòng người

hay nỗi buồn trong tâm hồn ngây thơ của chị em Liên nhuốm vào cảnh vật.

Nhưng trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh

đời thật tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống

mòn mỏi, héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự

tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối. Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra

mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre giữa

những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Khi trời nhá nhem tối,

khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con chị Tí với gánh hàng nước thật

nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn

hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn

vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía cuối làng”. Đêm

xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với chấm lửa nhỏ lơ lửng đi

trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn, có lẽ đây là hình ảnh có

phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng cũng rất ế ẩm. Khép lại

những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên manh chiếu

rách, bác chưa hát vì không có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn tượng và ám

ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên đầy bóng tối sau khi ba mất

việc ở Hà Nội làm cô cũng cảm thấy Hà Nội trở nên xa quá. Chính cái không

gian chiều tàn lạnh lẽo ấy đã đem các nhân vật trong tác phẩm nỗi bật lên hẳn,

không gian là trạng thái tĩnh và con người ở trạng thái động, chính cái tĩnh lặng

đến gợn người ấy đã làm cho các mảnh đời kia được quan tâm nhiều hơn, rồi

con người nơi đây sẽ ra sao khi mới vào đầu tác phẩm cảnh trời đã không tia hi

vọng.

Cũng từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố

huyện lúc chiều tối ta bỗng nhận ra qua cách miêu tả không gian ấy đã thể hiện

quan điểm và thái độ của tác giả đối với vấn đề. Ở buổi chiều tàn ấy, có một nhà

văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều hôm mà tâm hồn nặng tình gắn

bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ nơi đây. Ở đó, ta còn thấy thái

độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với những mong

ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là một chuyến

tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm. Từ bức

25 [external_footer]

Xổ số miền Bắc