Giới thiệu khái quát huyện Yên Mô

Giới thiệu khái quát huyện Yên Mô

Yên Mô là một huyện vùng trũng phía Nam của tỉnh Ninh Bình. Phía tây giáp thành phố Tam Điệp, phía nam giáp hai huyện Nga Sơn và Hà Trung của tỉnh Thanh Hoá, phía Bắc giáp huyện Hoa Lư, phía đông giáp huyện Kim Sơn, phía đông bắc giáp huyện Yên Khánh .
Huyện Yên Mô được hình thành từ rất sớm. Theo hiệu quả khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sống cách thời nay hàng vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ. Trải qua những thời kỳ lịch sử vẻ vang, địa điểm Yên Mô có một số ít lần tách nhập, đổi khác. Đến tháng 9 năm 1994 thực thi Nghị định số 59 – NĐ / CP ngày 04/7/1994 của nhà nước : tách 9 xã của huyện Yên Khánh cũ về lập lại huyện Yên Khánh đồng thời đổi tên huyện Tam Điệp thành huyện Yên Mô. Huyện Yên Mô chính thức đi vào hoạt động giải trí từ ngày 02/9/1994 .

Qua nhiều biến đổi về hành chính, tính đến năm 2013, huyện Yên Mô gồm 16 xã và 1 thị trấn: Yên Thắng, Khánh Thượng, Yên Hoà, Yên Đồng, YênThái, Yên Lâm, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương, Yên Hưng, Mai Sơn và thị trấn Yên Thịnh. 

Vùng đất Yên Mô từ rất lâu rồi là đất hiếu học, chuộng văn chương, trọng đạo lý. Hầu hết những thôn, xã đều có văn miếu, tư văn, tư võ, hội đồng môn. Yên Mô là một vùng đất có nhiều khoa bảng, làm quan thời phong kiến, là quê nhà của nhiều Danh nhân tiêu biểu vượt trội như : Trần Triệu Cơ, Ninh Tốn, Vũ Phạm Khải, Phạm Thận Duật, Tạ Uyên, Vũ Xuân Hồng .
Địa hình Yên Mô không đều, phong phú, tương đối phức tạp, chạy suốt sườn phía Tây và Tây Nam là dải núi Tam Điệp, đoạn ở đầu cuối của dãy Trường Sơn từ Hoà Bình đổ về và chạy ra tới biển. Địa hình dốc dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam và từ Tây Nam xuống Đông Bắc. Đây là vùng đất cổ, do hiện tượng kỳ lạ tạo sơn mà thành, có nhiều núi đá vôi trữ lượng hàng triệu mét khối. Xen kẽ núi đá vôi là những đồi đất, thung lũng hẹp và những hang động đẹp nổi tiếng như động Trà Tu, động Mã Tiên, động Ninh Hinh, …
Yên Mô có khí hậu, thời tiết vừa chịu tác động ảnh hưởng của khí hậu, thời tiết gió mùa, vừa chịu tác động ảnh hưởng khí hậu, thời tiết tiểu vùng. Mùa hè, mùa thu thường có mưa. Mùa hè có gió Nam từ biển thổi vào nhưng cũng tác động ảnh hưởng gió Tây Nam thổi tới, gây nực nội. Mùa đông sương muối khá dày, nhất là khu vực thung lũng thấp và kín gió nằm dưới chân núi Tam Điệp. Núi Tam Điệp chắn gió mùa Đông Bắc làm cho nhiệt độ xuống thấp bất thần, tạo nên hiện tượng kỳ lạ khô khô cứng lê dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau .
Theo thống kê của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Ninh Bình, tính đến năm 2012, toàn huyện Yên Mô có 254 di tích lịch sử trong đó có 11 di tích lịch sử được xếp hạng cấp vương quốc như đền Bình Hải, đền thờ Ninh Tốn, 45 di tích lịch sử xếp hạng cấp tỉnh và 45 tiệc tùng trong đó có một số ít liên hoan nằm trong dự án Bất Động Sản bảo tồn di sản văn hoá phi vật thể của tỉnh như : lễ hội Báo Bản Nộn Khê, liên hoan Bánh Dày ở đình Lục Giáp, xã Yên Thành, …
Yên Mô có 11 làng nghề truyền thống lịch sử như : nem chua Yên Mạc, dệt chiếu Bình Hải, … và nhiều điểm du lịch mê hoặc như : hồ Đồng Thái, động Mã Tiên, cửa biển Thần Phù, sân golf Hoàng Gia. Nem chua Yên Mạc được vinh danh là một trong 10 đặc sản nổi tiếng nem chả nổi tiếng Nước Ta .
Với những thành tích đạt được trong công cuộc kiến thiết xây dựng quê nhà quốc gia, quân và dân huyện Yên Mô đã vinh dự được quản trị nước tặng thưởng 02 Huân chương lao động hạng Nhì, 32 Huân chương lao động hạng Ba ; được nhà nước Tặng 02 Cờ thi đua, 43 Bằng khen ; những Bộ, ngành Trung ương Tặng Kèm 07 cờ thi đua và 337 bằng khen ; được Ủy Ban Nhân Dân tỉnh khuyến mãi 58 cờ thi đua và 1.046 bằng khăn. Năm 2009 cán bộ và nhân dân huyện Yên Mô vinh dự được quản trị nước trao tặng phần thưởng cao quý : Huân chương lao động hạng Nhất – đây là niềm vinh dự lớn của Đảng bộ, quân và dân toàn huyện. / .

Giới thiệu chung về lịch sử, văn hóa, con người Yên Mô

Huyện Yên Mô thuộc tỉnh Ninh Bình được hình thành từ rất sớm. Theo tác dụng khảo cổ, vùng đất cổ Yên Mô đã có con người sinh sống cách ngày này hành vạn năm. Thời nhà Trần gọi là Mô Độ, thời thuộc Minh, đổi tên Yên Mô thuộc châu Trường Yên. Thời vua Lê Thánh Tông ( 1460 – 1469 ) Yên Mô thuộc phủ Trường Yên. Đầu thế kỷ XIX, thời nhà Nguyễn vẫn gọi là Yên Mô, gồm 8 tổng với 59 xã, thôn, phường, trang, trại. Năm Minh Mạng thứ 19 ( 1838 ), cắt tổng Thần Phù thuộc huyện Nga Sơn, Thanh Hoá về huyện Yên Mô thuộc Phủ Yên Khánh tỉnh Ninh Bình. Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, huyện Yên Mô gồm 9 tổng với 65 xã, thôn. Năm 1948 – 1949 hợp nhất những xã quy mô nhỏ xây dựng 8 xã có quy mô lớn : Yên Sơn, Yên Thắng, Yên Thành, Yên Thái, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên phong, Yên Lạc. Năm 1956 sau cải cách ruộng đất chia tách 8 xã xây dựng 15 xã mới : Yên Sơn, Yên Bình, Yên Thắng, Yên Hoà, Yên Thành, Yên Đồng, Yên Thái, Yên Lâm, Yên Mạc, Yên Mỹ, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Yên Phú, Yên Lạc. Tháng 5 – 1961, xã Yên Lạc sáp nhập vào huyện Yên Khánh, ba xã Khánh Dương, Khánh Thịnh, Khánh Thượng thuộc huyện Yên Khánh sáp nhập vào huyện Yên Mô. Huyện Yên Mô vào thời gian 1961 gồm 17 xã .

Tháng 1 – 1967 xây dựng thị xã nông trường Đồng Giao thường trực huyện Yên Mô. Tháng 2 – 1974 giải thể thị xã nông trường Đồng Giao, xây dựng thị xã Tam Điệp thường trực tỉnh Ninh Bình .
Thực hiện quyết định hành động số 125 – CP ngày 27/4/1977 của Hội đồng nhà nước, 9 xã phía bắc huyện Yên Khánh hợp nhất với huyện Yên Mô và thị xã Tam Điệp thành huyện Tam Điệp .
Thực hiện quyết định hành động số 59 / CP ngày 4-7-1994 đổi tên huyện Tam Điệp xây dựng lại huyện Yên Khánh, tách 10 xã thuộc huyện Yên Khánh trước đây để xây dựng lại huyện Yên Khánh, huyện Tam Điệp đổi tên thành huyện Yên Mô, gồm 15 xã. Năm 1997 xây dựng Thị trấn Yên Thịnh. Năm 2000, tách thôn Hưng Hiền thuộc xã Yên Mỹ, xây dựng xã Yên Hưng ; tách xã Khánh Thượng xây dựng 2 xã Khánh Thượng và Mai Sơn .
Qua nhiều biến hóa về hành chính, đến nay ( năm 2013 ), huyện Yên Mô gồm 16 xã, 1 thị xã : Yên Thắng, Khánh Thượng, Yên Hoà, Yên Đồng, YênThái, Yên Lâm, Yên Mỹ, Yên Mạc, Yên Nhân, Yên Từ, Yên Phong, Khánh Thịnh, Khánh Dương, Yên Hưng, Mai Sơn và thị trấn Yên Thịnh .

Vùng đất Yên Mô từ xa xưa là đất hiếu học, chuộng văn chương, trọng đạo lý. Hầu hết các thôn, xã đều có văn miếu, tư văn, tư võ, hội đồng môn, điển hình là Côi Trì, Yên Mô Thượng, Nộn Khê, Quảng Phúc. Những di tích cảnh quan như Ngọn Đèn, Tháp Bút, Núi Bảng, Mũ Ông Đồ, Thần đồng đều nói lên truyền thống hiếu học. Cuối đời vua Lê Cảnh Hưng (1786) làng Yên Mô Thượng có tới 56 người đỗ sinh đồ. Yên Mô là một vùng đất có nhiều khoa bảng. một gia đình ở làng Côi Trì: chú Ninh Địch, cháu là Ninh Tốn đều đỗ Tiến sĩ làm quan đại thần triều Lê. Ông Nguyễn Tuyên đỗ phó bảng năm 1859; ông Vũ Phạm Khải thôn Phượng Trì đỗ cử nhân năm 1831 làm quan Nguyên ở Bộ được 3 đời vua yêu mến. Đặc biệt, ông Phạm Thận Duật người Yên Mô Thượng là một nhà văn hóa đa diện, ngoài chức Thượng Thư còn tham gia hội đồng cơ mật, kiêm quản Quốc Tử Giám từ năm 1878 đến năm 1885. Ba lần được xung chức chủ khảo chấm và xét duyệt các bậc phó Bảng, Tiến sĩ, làm sư Bảo (thầy dậy) các ông Hoàng Ưng Châu, Ưng Đường (sau này là vua Dực Đức, Đồng Khánh). Vua Tự Đức nhận xét về ông: “cứ xem các bản tấu sớ đủ biết Phạm Thận Duật từng lưu tâm điển xưa, tích cũ là thấy rộng nghe xa”. Khi nước ta bị thực dân Pháp đánh chiếm, Phạm Thận Duật là người chủ chiến chống thực dân Pháp, đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị phát chiếu Cần Vương (13-7-1885). Ông bị thực dân Pháp bắt đầy đi côn đảo rồi đưa đi biệt xứ đến đảo Haiti. Ông mất ngày 29-01-1885.

Nhân dân Yên Mô phần đông theo đạo Phật, có khoảng chừng 20 % số dân theo đạo Công giáo. Trước cách mạng tháng 8-1945, nhiều đình, chùa được chọn làm khu vực hoạt động giải trí của cơ sở cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp ( 1945 – 1954 ) quân địch đốt phá đình, chùa, diết hại sư sãi. Một số nhà sư tình nguyện tòng quân nghe theo tiếng gọi nước nhà lên đường giết giặc, tiêu biểu vượt trội như thượng tọa Thích Thanh Thìn – trụ trì chùa Phượng Ban ( xã Khánh Thịnh ) – chùa lớn nhất trong vùng. Hiện nay, toàn huyện có 69 ngôi đình, chùa, đền, miếu. Đạo Công giáo vào Yên Mô rất sớm ( 1627 ), do những giáo sĩ Phương Tây từ đàng trong theo đường thủy qua cửa biển Thần Phù lên Hảo Nho truyền đạo. Hiện nay, toàn huyện có 25 nhà thời thánh xứ và nhà thời thánh họ, hầu hết thiết kế xây dựng bên cạnh trục đường giao thông vận tải hoặc khu tập trung chuyên sâu dân cư như Tri Điền, Bạch Liên, Vân Mộng, Quảng Thượng, Bình Hải … đồng bào theo đạo công giáo có ý thức yêu nước, ủng hộ và tham gia kháng chiến chống thực dân đế quốc xâm lược. Một số linh mục như Phạm Bá Trực ( xứ bạch Liên ), Nguyễn Thế Vịnh ( xứ Quảng Thượng ) nỗ lực tham gia kháng chiến, kiến quốc. Trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, hàng ngàn người trẻ tuổi công giáo ra nhập bộ đội, người trẻ tuổi xung phong, đi dân công Giao hàng mặt trận, nhiều người lập chiến công xuất sắc .
Trải qua những biến cố lịch sử dân tộc, mỗi ngọn núi, khúc sông, đoạn đường, thôn xóm … ở Yên Mô không chỉ chứa đậm mồ hôi, nước mắt trong việc tương khắc và chế ngự vạn vật thiên nhiên để tăng trưởng và sống sót mà còn thấm máu của nhân dân trong những cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược, bảo vệ quê nhà quốc gia .

Source: https://mix166.vn
Category: Khám Phá

Xổ số miền Bắc