Ân Thi – Wikipedia tiếng Việt

Ân Thi là huyện nằm ở phía đông của tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.

Huyện Ân Thi nằm ở phía đông của tỉnh Hưng Yên, tỉnh nằm ở TT đồng bằng Bắc Bộ, cách thành phố Hưng Yên khoảng chừng 22 km về phía đông, cách TT thủ đô hà nội TP. Hà Nội khoảng chừng 48 km, có vị trí địa lý :
Huyện Ân Thi có diện tích quy hoạnh là 129,98 km², dân số năm 2020 là 135.075 người [ 1 ], tỷ lệ dân số đạt 1.039 người / km² .

Huyện Ân Thi có 21 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Ân Thi (huyện lỵ) và 20 xã: Bắc Sơn, Bãi Sậy, Cẩm Ninh, Đa Lộc, Đặng Lễ, Đào Dương, Hạ Lễ, Hồ Tùng Mậu, Hoàng Hoa Thám, Hồng Quang, Hồng Vân, Nguyễn Trãi, Phù Ủng, Quảng Lãng, Quang Vinh, Tân Phúc, Tiền Phong, Vân Du, Văn Nhuệ, Xuân Trúc.

Ân Thi thời Hùng Vương thuộc bộ Dương Tuyền. Sau là huyện Thiên Thi thuộc lộ Khoái Châu xứ Sơn Nam rồi Sơn Nam Thượng .Trước kia, dọc đường 38 địa phận xã Tân Phúc có dấu vết Thánh Gióng đánh giặc Ân trong truyền thuyết thần thoại là những ao nhỏ ( vết chân ngựa ) và những bụi tre ngà ( vũ khí ) liên tục trên cánh đồng .Năm Minh Mạng thứ 12 ( 1831 ), tỉnh Hưng Yên được xây dựng, Thiên Thi trở thành một huyện của tỉnh Hưng Yên .

Năm Tự Đức thứ 15 (1862), đổi tên các huyện để tránh chữ Thiên thuộc diện các chữ tôn kính, chẳng hạn như huyện Thiên Bản đổi thành Vụ Bản (nay thuộc Nam Định), huyện Thiên Lộc đổi thành Can Lộc (nay thuộc Hà Tĩnh), vua ra lệnh đổi huyện Thiên Thi thành huyện Ân Thi.

Ngày 25 tháng 2 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định xây dựng đạo Bãi Sậy và 1 số ít xã của huyện Ân Thi được cắt sang đạo Bãi Sậy .Năm 1891, bãi bỏ đạo Bãi Sậy, trả lại những xã đã cắt sang về huyện Ân Thi .Ngày 27 tháng 1 năm 1968, Quốc hội phát hành Nghị quyết [ 3 ] về việc tỉnh Thành Phố Hải Dương và tỉnh Hưng Yên hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng và huyện Ân Thi thuộc tỉnh Hải Hưng .Năm 1979, nhà nước ban hành Quyết định 70 – CP [ 4 ] về việc hợp nhất huyện Kim Động và huyện Ân Thi thành một huyện lấy tên là huyện Kim Thi .Ngày 4 tháng 1 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 02 – HĐBT [ 5 ] về việc sáp nhập những xã Hiến Nam và Lam Sơn của huyện Kim Thi vào thị xã Hưng Yên quản trị .

Ngày 23 tháng 3 năm 1996, Chính phủ ban hành các Nghị định 05-CP[6], 17-CP[7] về việc:

  • Chia huyện Kim Thi thành hai huyện Kim Động và Ân Thi. Huyện Ân Thi có diện tích tự nhiên 12.498,23 hécta và 124.714 nhân khẩu, gồm 21 xã
  • Thành lập thị trấn Ân Thi trên cơ sở xã Thổ Hoàng cũ và một phần xã Đăng Lễ, Hoàng Hoa Thám, Quảng Lăng.

Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội phát hành Nghị quyết [ 8 ] về việc chia tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Thành Phố Hải Dương và Hưng Yên và huyện Ân Thi thuộc tỉnh Hưng Yên .Từ đó, huyện Ân Thi có 1 thị xã và 20 xã cho đến nay .

Kinh tế – xã hội[sửa|sửa mã nguồn]

Ân Thi là một huyện đồng bằng thuần nông, chuyên canh lúa nước, dân trí tương đối cao, dân cư hầu hết là dân tộc bản địa Kinh, đa phần theo đạo Phật, đạo Mẫu ( số ít theo Thiên chúa giáo ) .
Là một huyện chậm tăng trưởng của Hưng Yên, phía Đông Nam của tỉnh. Nhóm nghề dịch vụ, kinh doanh thương mại trung bình trên số hộ thấp nhất tỉnh, thấp hơn cả những huyện phía dưới như Tiên Lữ, Kim Động, Phù Cừ. Ân Thi tuy có ít làng nghề hơn những huyện phía tây và phía bắc tỉnh nhưng Ân Thi lại có một số ít làng nghề mang nét đặc trưng :

  • Chạm bạc Huệ Lai
  • Làm nón Mão Cầu
  • Bánh đa Trà Phương
  • Rau, nông sản.

Trên địa phận huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa truyền thống, lịch sử dân tộc như :
Trên địa phận huyện có 3 quốc lộ đi qua, gồm : quốc lộ 38, đường cao tốc TP.HN – Hải Phòng Đất Cảng ( hoàn thành xong năm năm ngoái ) và quốc lộ 39 mới ( dự án Bất Động Sản ) .Đường quốc lộ 38 chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, từ thị xã Kẻ Sặt huyện Bình Giang, cắt ngang huyện, qua thị xã Ân Thi, sang nối với đường quốc lộ 39 ở Kim Động .
Là một địa phương có truyền thống lịch sử hiếu học, huyện Ân Thi thời phong kiến đã có nhiều vị nổi danh khoa bảng. Sau đây là list những vị đỗ đại khoa của huyện Ân Thi được ghi lại tại Văn miếu Xích Đằng, Hưng Yên :

Thời nhà Trần có hai người nổi tiếng là Nguyễn Trung Ngạn và Phạm Ngũ Lão. Nguyễn Trung Ngạn là nhà chính trị, ngoại giao có tài, trải nhiều chức vụ từ chức Thông giám đến Tể tướng. Năm 1304, đỗ Hoàng giáp, cùng khoa với Mạc Đĩnh Chi, sống cùng thời với Trương Hán Siêu, Chu Văn An… Ông là ngoại giao xuất sắc, có vai trò quan trọng trong hai lần đi sứ nhà Nguyên, bảo đảm chủ quyền và độc lập dân tộc. Thuở nhỏ ông đã nổi tiếng là thần đồng và có năng khiếu văn chương.Ông còn là nhà văn, nhà thơ có tài. “Lịch triều hiến chương loại chí” Viết: “Lời thơ hào mại, phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ Lăng (tức Đỗ Phủ). Những câu thơ hay nhiều không kể xiết. Thơ tứ tuyệt lại càng hay, không kém gì thơ thời thịnh Đường”. Tác phẩm của ông có: Giới Hiên thi tập, Hình luật thư… Hiện còn 84 bài thơ trong Giới hiên thi tập.

Phạm Ngũ Lão vốn là gia tướng của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn coi ông như người bạn, phải bày mưu làm lễ đổi họ chuyển con gái ruột là quận chúa Anh Nguyên thành con nuôi rồi gả cho Phạm Ngũ Lão. Vị tướng tài đức này đã bốn lần mang quân đi tiễu phạt quân Ai Lao quấy nhiễu, hai lần đánh thắng quân Chiêm Thành. Ông là người văn võ toàn tài, trung thành với chủ, liêm khiết, được phong là Điện súy Thượng tướng quân và được thờ cùng với Trần Quốc Tuấn ( Đức Thánh Trần ). Ông đạt được đến cấp thượng tướng quân và sau khi mất được vua Trần nghỉ triều để tưởng niệm. Nhắc đến danh tướng Phạm Ngũ Lão, một danh thần đã gói trong bốn chữ : văn võ toàn tài .

Hậu duệ của ông Tiến sĩ Đinh Tú kể trên là Quận công Đinh Văn Tả mà Sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính xếp Đinh Văn Tả là bậc mãnh tướng như Phạm Ngũ Lão. Ông làm quan nhà Lê Thần Tông và Lê Huyền Tông. có công giúp chúa Trịnh Tạc, Trịnh Căn dẹp loạn nội bộ nhà Trịnh, dẹp loạn Đông Hải, dẹp tan nhà Mạc nên được chúa Trịnh ưu đãi. Được phong Đô Tổng binh, Quận công, Đô đốc, rồi Thượng tể và ban cho 300 mẫu ruộng bổng lộc. Câu ngạn ngữ: “Đánh giặc họ Đinh làm quan họ Đặng” để chỉ công lao, tài giỏi của ông. Trong lịch sử Việt Nam, ông là người duy nhất được phong làm Phúc thần Thành hoàng Thượng đẳng Đại vương khi đang còn sống (gọi là sinh phong). Khi mất được vua Lê, chúa Trịnh đến viếng, cho Bộ Lễ hộ tang về quê, được an táng như bậc vương giả và được ban thụy hiệu là Vũ Dũng. Chúa Trịnh Căn tặng ông đôi câu đối: Tiết việt quyền long triều túc tướng – Phiên toàn trách trọng quốc nguyên huân. Con cháu đều làm tướng giỏi, được phong 18 đời làm Quận công.

Xổ số miền Bắc