Rối loạn đa nhân cách – Wikipedia tiếng Việt

Rối loạn đa nhân cách (tiếng Anh: DID – Dissociative identity disorder) hay còn được gọi là rối loạn nhân dạng phân ly,[6] là một dạng rối loạn tâm thần được đặc trưng bằng ít nhất hai nhân cách khác biệt và tồn tại tương đối lâu ở người bệnh.[3] Triệu chứng thường đi kèm với bệnh mất trí nhớ tâm lý vượt xa so với sự đãng trí thông thường.[3] Những nhân cách này thay phiên thể hiện trong hành vi của một người;[3] tuy nhiên nhân cách nào xuất hiện còn tùy thuộc vào từng trường hợp.[4] Các vấn đề khác thường xảy ra ở những người mắc DID bao gồm rối loạn nhân cách ranh giới (BPD), hậu chấn tâm lý (PTSD), trầm cảm, rối loạn sử dụng chất, tự gây hại, và lo lắng.[3][4]

Một số chuyên viên tin rằng nguyên do của bệnh này là chấn thương từ thời thơ ấu. [ 7 ] Trong khoảng chừng 90 % các trường hợp, người bệnh đã từng bị lạm dụng khi còn bé, trong khi các trường hợp còn lại nguyên do có tương quan đến cuộc chiến tranh hoặc các yếu tố sức khỏe thể chất khi còn nhỏ. [ 3 ] Yếu tố di truyền cũng được cho là một yếu tố tương quan. [ 4 ] Một giả thuyết khác cho rằng nó là công dụng phụ của các kỹ thuật được sử dụng bởi 1 số ít nhà trị liệu, đặc biệt quan trọng là những nhà trị liệu sử dụng thuật thôi miên. [ 4 ] [ 8 ] Không nên Kết luận bệnh nhân bị bệnh này nếu thực trạng của người bệnh được lý giải tốt hơn bởi sự lạm dụng chất gây nghiện, co giật, trẻ nhỏ chơi game show tưởng tượng, hoặc thực hành thực tế tôn giáo. [ 3 ]

Những cách điều trị thường bao gồm chăm sóc hỗ trợ và tâm lý trị liệu.[7] Tình trạng bệnh thường bị kéo dài nếu không được điều trị.[7][9] Bệnh được cho là ảnh hưởng đến khoảng 1,5% trên tổng dân số và 3% đối với những người nhập viện tâm thần ở Châu Âu và Bắc Mỹ.[3][5] Bệnh này ở nữ giới nhiều gấp sáu lần so với nam giới.[4] Số lượng các trường hợp DID tăng đáng kể trong nửa sau của thế kỷ 20, cùng với số lượng nhân cách ở bệnh nhân cũng tăng đáng kể.[4]

Rối loạn đa nhân cách là bệnh gây tranh cãi trong cả tâm thần học và hệ thống pháp luật.[4][8] Trong các vụ kiện tòa án, bệnh này ít khi được sử dụng để bào chữa thành công bệnh nhân tâm thần.[10][11] Không rõ liệu tỷ lệ bệnh này gia tăng là do xã hội nhận biết tốt hơn về bệnh này hay do các yếu tố văn hóa xã hội ví dụ như cách truyền thông mô tả bệnh này.[4] Phần lớn các ca rối loạn đa nhân cách được chẩn đoán bởi một số ít bác sĩ lâm sàng, điều này trùng khớp với giả thuyết cho rằng bệnh này có thể do chính nhà trị liệu tâm lý gây ra.[4] Các triệu chứng điển hình của bệnh này có thể có sự khác biệt khi so sánh các khu vực khác nhau trên thế giới tùy thuộc vào cách bệnh rối loạn đa nhân cách được các phương tiện truyền thông mô tả ví dụ như phim.[4]

Phân ly là từ trình độ làm cơ sở để chẩn đoán các loại bệnh rối loạn phân ly gồm có DID. Từ này không có định nghĩa khoa học chính xác được đồng thuận thoáng đãng. [ 12 ] [ 13 ] [ 14 ] Một số lượng lớn các triệu chứng được chẩn đoán phân ly là gồm có từ sự mất tập trung chuyên sâu thông thường cho tới sự suy nhược trí nhớ thường thấy ở các bệnh rối loạn phân ly. Do đó hiện tại không rõ là nếu như có một nguyên do chung cho toàn bộ các chịu chứng phân ly hoặc nếu như các chịu chứng từ nhẹ tới nặng là hậu quả của các nguyên căn và cấu trúc sinh học khác nhau. [ 12 ] Các từ trình độ khác như nhân cách, trạng thái nhân cách, truyền thống, trạng thái cái tôi, và trạng thái mất trí nhớ cũng không có định nghĩa được thống nhất. [ 13 ] [ 15 ] Có 1 số ít quy mô chẩn đoán bệnh gồm có những triệu chứng không thuộc loại phân ly và vô hiệu một số ít triệu chứng phân ly. [ 13 ] Mô hình chẩn đoán được thông dụng thoáng rộng nhất xem DID là trạng thái cực đoan của trạng thái phân ly. Còn quy mô dòng chảy để lý giải trạng thái phân ly thì vẫn còn gây tranh cãi. [ 14 ]Một số từ ngữ mới được tạo ra để diễn đạt những hiện tượng kỳ lạ trong trạng thái phân liệt. Nhà tâm thần học Paulette Gillig lý giải sự độc lạ giữa hai từ được sử dụng nhiều trong các tranh luận về bệnh DID là ” trạng thái cái tôi ” ( ego state ) và ” nhân cách “. Trạng thái cái tôi là những hành vi và thưởng thức hoàn toàn có thể trộn lẫn với những trạng thái cái tôi khác nhưng chỉ có một cái tôi duy nhất, và mỗi nhân cách đều có bộ trí nhớ khác nhau, năng lực tư duy riêng không liên quan gì đến nhau, và mỗi nhân cách tự nhận mình là một người khác nhau. Ellert Nijenhuis và các đồng nghiệp đưa ra giả thuyết là có sự độc lạ giữa ” nhân cách thông thường ” ( nhân cách thường thấy hàng ngày ) và ” nhân cách xúc cảm ” ( nhân cách này Open khi có phản ứng chiến hay chạy, ký ức chấn thương mãnh liệt, và xúc cảm đau đớn ). [ 16 ] Otto van der Hart và các đồng nghiệp tạo ra từ mới ” cấu trúc phân ly của nhân cách ” để miêu tả trạng thái phân ly do các sự kiện chấn thương hoặc bệnh lý gây ra. Cấu trúc phân ly được chia ra làm ba bậc. Bậc một gồm có một nhân cách thông thường và một nhân cách cảm hứng. Bậc hai gồm có một nhân cách thông thường và tối thiểu hai nhân cách xúc cảm. Bậc ba gồm có tối thiểu hai nhân cách thông thường và hai nhân cách cảm hứng. Theo thuyết này thì DID thuộc cấu trúc bậc ba. [ 12 ] Một số nhà tâm thần học khác đưa ra giả thuyết rằng trạng thái phân ly hoàn toàn có thể chia thành hai hình thái riêng không liên quan gì đến nhau, vô cảm và chia ngăn. Trạng thái chia ngăn là sự mất trấn áp những quy trình hoặc hành vi tự chủ thường thấy ở bệnh DID. Các điều tra và nghiên cứu để phân biệt trạng thái phân ly thông thường và phân liệt bệnh lý vẫn chưa được hội đồng tâm thần học đồng ý thoáng rộng. [ 12 ]

Xổ số miền Bắc