YG Entertainment – Wikipedia tiếng Việt

1996 – 2005 : Nguồn gốc hip hop, thành công xuất sắc bắt đầu và thế hệ K-pop tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Vào tháng 3 năm 1996, Yang Hyun-suk, cựu thành viên của nhóm nhạc K-pop thế hệ tiên phong, Seo Taiji and Boys, đã xây dựng YG Entertainment cùng với em trai của mình là Yang Min-suk. [ 1 ] [ 2 ] Nghệ sĩ tiên phong của công ty là bộ ba hip hop Keep Six. Khi họ không lôi cuốn được sự nổi tiếng, Yang Hyun-suk đã chuyển sự tập trung chuyên sâu của mình sang bộ đôi Jinusean và ra đời 1TYM vào năm 1998. Cả hai nhóm đều là những nghệ sĩ thành công xuất sắc được Yang Hyun-suk ghi nhận vì đã đưa YG và thể loại hip hop trở thành nền âm nhạc chính thống của Nước Hàn. [ 1 ]Năm 1999, những nghệ sĩ của YG đã phát hành một album hợp tác mang tên YG Family. Công ty sau đó đã phát hành những mẫu sản phẩm âm nhạc của những nghệ sĩ như Perry, Swi. T, Big Mama, Lexy, Gummy và Wheesung. Nó cũng xây dựng công ty ” YG Underground “, gồm có 45RPM và Stony Skunk. Năm 2001, album YG Family thứ hai được phát hành. Trong số những nghệ sĩ khác, nó có sự góp mặt của cậu bé 13 tuổi, G-Dragon, khi đó đang là một thực tập sinh. [ 3 ]Công ty đạt được thành công xuất sắc ở cả Nước Hàn và Nhật Bản với ca sĩ ” thần tượng ” tiên phong Seven vào năm 2003, [ 4 ] người đã trở thành nghệ sĩ tiên phong của công ty nỗ lực lấn sân sang thị trường âm nhạc Hoa Kỳ, mặc dầu màn ra đời tại Hoa Kỳ của anh không đạt được thành công xuất sắc. [ 5 ]

2006 – 2011 : Đột phá chính[sửa|sửa mã nguồn]

[6]Big Bang là nghệ sĩ thành công nhất của YG và chịu trách nhiệm cho hơn một nửa tổng doanh số album của YG tại Hàn Quốc từ năm 2014 đến năm 2017.

Sau thành công của Se7en, YG đã thành lập nhóm nhạc thần tượng đầu tiên Big Bang vào năm 2006. Mặc dù ban đầu được đón nhận khá nồng nhiệt, nhưng sự bứt phá của nhóm được bắt đầu vào năm sau và sự nổi tiếng ổn định của họ đã khiến họ trở thành một trong những nhóm nhạc nam nổi tiếng nhất.[7] Tiếp theo là nhóm nhạc nữ đầu tiên 2NE1 của YG vào năm 2009,[8] trước khi tách nhóm vào năm 2016, họ đã được coi là một trong những nhóm nhạc nữ thành công và nổi tiếng nhất ở Hàn Quốc.[9][10] Tương tự như Seven, cả hai nhóm đều có sự nghiệp thành công ở Nhật Bản.[11][12][13]

2NE1 ra mắt vào năm 2009 với tư cách là nhóm nhạc nữ đầu tiên của YG và trở thành nhóm nhạc đầu tiên có 9 bài hát quán quân trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.Năm 2010, YG đã có một hành động được công bố thoáng đãng cho việc di tán đến một tòa nhà mới, trong khi trụ sở cũ trở thành một trụ sở huấn luyện và đào tạo. [ 14 ] [ 15 ] Cùng năm, công ty ĐK niêm yết trên đầu tư và chứng khoán nhưng không thành công xuất sắc ; người ta hoài nghi rằng điều này là do công ty có quá ít nhóm nhạc hoạt động giải trí và lệch giá không không thay đổi, mặc dầu thu nhập tăng trong năm 2009. [ 16 ] Cuối năm đó, công ty đã ký hợp đồng với nghệ sĩ Psy. [ 17 ]

2012 – năm ngoái : Sự công nhận quốc tế và lan rộng ra kinh doanh thương mại[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 2012 đã mang lại cho YG sự công nhận quốc tế khi ” Gangnam Style ” của Psy trở nên phổ cập trên toàn quốc tế như một video Viral. Vào ngày 21 tháng 8, nó đã đứng ở vị trí số 1 trên iTunes Music Video Charts. Đây là thành tích tiên phong của một nghệ sĩ Nước Hàn. [ 18 ] Đến ngày 24 tháng 11, ” Gangnam Style ” đã trở thành video được xem nhiều nhất trong lịch sử dân tộc YouTube và là video tiên phong vượt qua 1 tỷ lượt xem. [ 19 ] [ 20 ] Bài hát được cho là nguyên do chính khiến giá CP của YG tăng hơn 60 %, [ 21 ] công ty sau đó đã nộp báo cáo giải trình thường niên tiên phong vào năm 2012 với doanh thu hơn 50 %, [ 22 ] sau khi niêm yết trên KOSDAQ vào năm trước. [ 23 ]Cùng năm đó, công ty đã ký hợp đồng với rapper kiêm nhà phân phối Tablo, trưởng nhóm của nhóm nhạc hip hop Epik High, khởi đầu lại sự nghiệp của anh sau một thời hạn gián đoạn sự nghiệp âm nhạc sau cuộc tranh cãi ở trường Stanford. [ 24 ] Epik High sau đó đã chuyển sang YG sau thành công xuất sắc của anh. [ 25 ]

Việc Yang Hyun-suk tham gia nhiều hơn vào các chương trình truyền hình thực tế sống còn đã dẫn đến một số thỏa thuận hợp đồng với các thí sinh, bắt đầu với á quân mùa đầu tiên của K-pop Star là Lee Hi.[26] Những người tham gia khác trong chương trình đã được ký hợp đồng với tư cách là thành viên tiềm năng của các nhóm nhạc nam tương lai của công ty. Vào mùa thứ hai của chương trình, cả hai người chiến thắng, bộ đôi anh em Akdong Musician và á quân Bang Ye-dam, đã ký hợp đồng với YG.[27][28] Ngoài ra, chương trình thực tế WIN: Who is Next sau đó đã được YG công bố, trong đó hai đội nam thực tập sinh cạnh tranh với nhau để giành cơ hội ký hợp đồng với công ty và ra mắt với tư cách là nhóm nhạc nam tiếp theo của YG. Phần kết của chương trình thực tế đã chứng kiến sự hình thành của Winner.[29]

Winner ra mắt thành công vào năm 2014 và trở thành nhóm nhạc K-pop nhanh nhất giành vị trí số 1 trên chương trình âm nhạc. Họ đã giành được chiến thắng trong chương trình âm nhạc đầu tiên chỉ 6 ngày sau khi ra mắt.Vào năm năm trước, YG đã mua lại đội ngũ nhân viên cấp dưới và diễn viên của T Entertainment, gồm có Cha Seung-won, Im Ye-jin và Jang Hyun-sung. [ 30 ] Ngoài ra, trải qua việc mua lại công ty quản trị người mẫu K-Plus, nó đã lan rộng ra bộ phận diễn xuất của mình trải qua sự ra đời diễn xuất của người mẫu Lee Sung-kyung và Nam Joo-hyuk. [ 31 ] cũng đã ký hợp đồng với nữ diễn viên Choi Ji-woo. [ 32 ] [ 33 ] [ 34 ] [ 35 ] Tập đoàn góp vốn đầu tư tư nhân của tập đoàn lớn LVMH, L Capital Asia, sau đó đã thông tin rằng họ sẽ góp vốn đầu tư 80 triệu USD vào YG. Có trụ sở chính tại Nước Singapore, L Capital Asia sẽ trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai của YG với 11,5 % CP, chỉ đứng sau 28 % của Yang Hyun-suk. [ 36 ] Năm năm trước, YG cũng lan rộng ra sang nghành làm đẹp với việc xây dựng tên thương hiệu mỹ phẩm Moonshot. [ 37 ] [ 38 ]

Vào năm 2015, YG đã đầu tư gần 100 triệu USD vào một khu liên hợp công nghiệp mới có trụ sở tại Gyeonggi-do, dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 12 năm 2018.[39] Bất động sản ở Seoul trị giá 16 tỷ KRW (14 triệu USD) cũng được mua với mục đích mở rộng trụ sở chính của họ.[40] Trong năm đó, công ty cũng đã thành lập hai công ty con, công ty con đầu tiên do Tablo đứng đầu,[41] và công ty con thứ hai do các nhà sản xuất YG, Teddy Park của 1TYM và Kush của Stony Skunk đứng đầu.[42] Ngoài ra, các thành viên của đội thua cuộc từ chương trình thực tế WIN: Who is Next đã tập hợp lại và ra mắt với tên iKON, cùng với một thành viên mới.[43]

năm nay – nay : Những tăng trưởng gần đây và tranh cãi[sửa|sửa mã nguồn]

iKon ra mắt vào năm 2015. Đĩa đơn năm 2018 của họ, “Love Scenario,” đã phá vỡ nhiều kỷ lục vào thời điểm đó; trong đó có kỷ lục bài hát đứng đầu bảng xếp hạng lâu nhất, bài hát có số giờ “perfect all-kill” nhiều nhất và bài hát đầu tiên được KCMA trao chứng nhận Bạch kim. Billboard.[44][45]Blackpink ra mắt năm 2016 và trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên có 4 đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng World Digital Song Sales của16 năm sau khi nhóm tan rã, nhóm nhạc nam K-pop thế hệ tiên phong Sechs Kies đã ký hợp đồng với YG vào tháng 5 năm năm nay để mở màn lại sự nghiệp của họ. [ 46 ] [ 47 ] [ 48 ] Cùng tháng, hai doanh nghiệp công nghệ tiên tiến Trung Quốc Tencent và Weiying Technology đã công bố khoản góp vốn đầu tư 85 triệu USD vào YG. Weiying chiếm 8,2 % CP của công ty và Tencent 4,5 % chiếm CP. [ 49 ] YG sau đó đã thêm Lee Jong-suk, [ 50 ] Kang Dong-won, [ 51 ] và Kim Hee-jung [ 52 ] vào list diễn viên của họ .

YG ra mắt Blackpink vào năm 2016,[53] tiếp theo là nam rapper One vào năm sau.[54] Cuối năm đó, YG khởi động chương trình tìm kiếm tài năng mang tên Mix Nine, một cuộc thi giữa các thực tập sinh từ các công ty khác nhau.[55][56] Mặc dù đội chiến thắng đã được lên kế hoạch ra mắt với tư cách thần tượng,[57] YG tiết lộ rằng màn ra mắt của nhóm nam chiến thắng đã bị hủy bỏ.[58][59] Sự thất bại của chương trình đã dẫn đến khoản lỗ 7 tỷ KRW trong quý đầu tiên và 4 tỷ KRW trong 3 tháng cuối năm 2017,[6][60] khiến JYP Entertainment vượt mặt YG để trở thành công ty K-pop có giá trị cao thứ hai.[61]

Vào tháng 5 năm 2018, Psy rời công ty sau 8 năm.[62] Cuối năm đó, YG đã khởi động YG Treasure Box, một chương trình cạnh tranh sống còn để xác định đội hình cho nhóm nhạc nam tiếp theo của họ.[63] Nhóm nhạc nam Treasure đã ra mắt vào tháng 8 năm 2020.[64]

Sau vụ bê bối Burning Sun tương quan đến Seungri của Big Bang, những cáo buộc tham nhũng xung quanh Yang Hyun-suk và một vụ bê bối ma túy tương quan đến trưởng nhóm B.I của iKon, Yang Hyun-suk đã từ chức CEO và từ chức khỏi tổng thể những vị trí trong YG và em trai của ông, Yang Min-suk, cũng đã từ chức CEO vào ngày 14 tháng 6 năm 2019. [ 65 ] [ 66 ] [ 67 ] [ 68 ] Hwang Bo-kyung được chỉ định làm CEO mới của YG vào ngày 20 tháng 6 năm 2019. [ 69 ]Vào ngày 4 tháng 5 năm 2021, Korea Exchange thông tin rằng YG đã bị giáng cấp từ công ty blue-chip xuống doanh nghiệp tầm trung thường thì, kể từ khi được thăng cấp vào tháng 4 năm 2013. Công ty ghi nhận khoản lỗ ròng 1,8 tỷ KRW và doanh thu trên vốn chủ sở hữu là – 0,5 %. Hoạt động kinh doanh thương mại chính, sản xuất âm nhạc và quản trị, đã trải qua thực trạng kinh doanh thương mại thua lỗ trong 2 năm qua. [ 70 ]
Trong nước, YG đã có quan hệ đối tác chiến lược với M-Boat Entertainment và EunGun Entertainment, Yamazone Music và Booda Sound. Sau khi hợp đồng với Big Mama và Soul Star kết thúc, EunGun và M-Boat cũng kết thúc những hoạt động giải trí của họ với YG Entertainment .Bắt đầu từ năm 2005, YG lan rộng ra sang thị trường quốc tế. Se7en là nghệ sĩ YG tiên phong lan rộng ra hoạt động giải trí sang những nước còn lại của châu Á. YG đã hợp tác cùng Nexstar Records, một thương hiệu Nippon Columbia, để quản trị việc phát hành những loại sản phẩm tiếng Nhật của Se7en [ 71 ]Universal Music Japan quản trị những hoạt động giải trí tại Nhật của Big Bang, [ 72 ] và Avex Group quản trị những hoạt động giải trí tại Nhật của 2NE1. [ 73 ] YG Entertainment phát hành những album tiếng Hàn trải qua 21 East Entertainment tại Trung Quốc, GMM International tại Vương Quốc của nụ cười, và Universal Records tại Philippines. [ 74 ] [ 75 ] [ 76 ]Năm 2011, YG Entertainment hợp tác với S.M. Entertainment, JYP Entertainment, KeyEast, AMENT và Star J Entertainment tạo nên United Asia Management để tạo ra một nỗ lực tiếp thị âm nhạc Nước Hàn ra quốc tế [ 77 ]
Tháng 3 năm 2010, KMP Holdings được xây dựng trải qua hợp tác giữa YG, S.M. Entertainment, JYP, Star Empire và những công ty khác. KMP là nhà phân phối chính thức những mẫu sản phẩm của những công ty trên. KMP là viết tắt của Korean Music Power. [ 78 ]

United Asia Management[sửa|sửa mã nguồn]

Tháng 4 năm 2011, YG, SM, JYP, KeyEast, AMENT và Star J Entertainment đã hợp tác xây dựng United Asia Management nhằm mục đích mục tiêu tiếp thị âm nhạc Nước Hàn ra quốc tế. [ 79 ]
YGEX được xây dựng dưới quan hệ đối tác chiến lược giữa Avex Group và YG Entertainment cho việc tiếp thị và phát hành của những nghệ sĩ YG tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ của YGEX gồm có tổng thể những nghệ sĩ đang hoạt động giải trí thuộc YG Entertainment. [ 80 ]
YG Plus Inc., trước kia là Phoenix Holdings Inc., là một công ty tiếp thị quảng cáo và quảng cáo được YG Entertainment mua lại vào tháng 10 năm năm trước. Yang Min-suk được chỉ định làm CEO của công ty, YG Entertainment chiếm hữu 38,6 % CP của công ty. Một số người mua đáng quan tâm của nó gồm có Coca-Cola, SK Telecom và The Face Shop. YG Plus hiện chiếm hữu 100 % CP của YG KPlus và YG Golf Academy, với CP thiểu số tại Moonshot và Nonagon. Năm 2019, công ty bước vào nghành phân phối âm nhạc. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2021, nó đã được bật mý rằng Hybe Corporation và công ty con công nghệ tiên tiến của Hybe, Weverse Company ( trước kia là beNX ) đã góp vốn đầu tư 70 tỷ KRW ( ~ 63 triệu USD ) vào công ty. [ 81 ]

YG và Hyundai Card[sửa|sửa mã nguồn]

Tháng 6 năm 2012, YG đã kết hợp cùng với hãng sản xuất Hyunndai để chung tay phát hành và quảng bá album Still Alive của Big Bang.[82]

YG Entertainment là một công ty tham gia rất nhiều hoạt động giải trí từ thiện, tạo dựng chiến dịch hội đồng cùng với WITH. Họ quyên góp 100 won cho mỗi album bán ra, 1 % từ những lệch giá kinh doanh bán lẻ, và 1,000 won cho bất kể những vé hòa nhạc nào được bán ra cho những tổ chức triển khai từ thiện. Vào năm 2009, số tiền lên tới USD 141,000 USD. Họ vượt mức số tiền đó vào năm sau với USD 160,000 USD. Tổng cộng là USD 87,000 USD dành cho những suất học bổng cho Holt Children’s Services trong khi USD 69,000 USD là dành cho những trẻ nhỏ mắc bệnh hiểm nghèo. YG Family cũng đã trực tiếp quyên Tặng Ngay USD 4,400 USD, đó là số tiền mua than cho những mái ấm gia đình nghèo khó trong mùa đông. [ 83 ] Công ty cũng thông tin rằng sẽ ủng hộ khoảng chừng USD USD 500,000 cho việc cứu trợ những nạn nhân của trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản năm 2011. [ 84 ]

Nghệ sĩ thu âm hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]

Công ty con[sửa|sửa mã nguồn]

The Black Label

  • Jeon So-mi
  • Okasian
  • Vince
  • Nhà sản xuất
    • Seo Won-jin
    • Jeon Somi
    • Dress
    • Joe Rhee
    • R.Tee
    • 24
    • Peejay
    • Okasian (The Cohort)
    • Bryan Chase (The Cohort)

YGX

  • Viini
  • Anda
  • Nhà sản xuất:
    • Choice37
    • Hae
    • Se.A
    • 1105
    • Lil G
    • Sonny

YGKplus

  • ATO6

HI-TECH

  • Lee Jae-wook
  • Park Jung-heon
  • Kim Hee-yeon
  • Kim Byung-gon
  • Kwon Young-deuk
  • Kwon Young-don
  • Yoo Choong-jae
  • Heo Jun-seon
  • Lee Sa-heon
  • Shin Dong-ho

CRAZY

  • Kim Hee-jung
  • Won Ah-yeon
  • Kim Min-jung
  • Park Eun-young
  • Choi Sae-bom
  • Choi Hye-jin
  • Kim I-seul
  • Jin Su-hyun
  • Mai Murakawa
  • Son Su-bin
  • Park Eun-chong
  • Lulu Kim

Người mẫu nữ

  • Ahn Ye-won (thí sinh Produce 48)
  • Bae Yoon-young
  • Cho Yelim
  • Choi Ah-reum
  • Choi Ha-rim
  • Choi Jung-in
  • Choi Yeon-soo (thí sinh Produce 48)
  • Choi Young-ji
  • Choi Sae-hui
  • Choi So-ra
  • Ellis Ahn
  • Gil Minso
  • Ha Naryoung
  • Han Hye-yeon
  • Hanna N
  • Huh Bo-mi
  • Hong Hyo
  • Hong Na-kyung
  • Hwang Hyun-joo
  • Hwang So-hee
  • Hyun Ji-eun
  • Jeon Min ok
  • Ji ESuu
  • Jisoo (Blackpink)
  • Ji Ho-jin
  • Jo Hye-joo
  • Ju Hee-jeong
  • Jung Han-sol
  • Jung Ji-young
  • Jung Soo-hyun
  • Jung Yoo-sun
  • Kang Yoon-ji
  • Kelly Low (Park Min Jae)
  • Kim Eun-sun
  • Kim Hae-ah
  • Kim Hyo-kyung
  • Kim Hyun-hee
  • Kim Sae-in
  • Kim Sang-Won
  • Kim Su-bin
  • Kim Yae-ji
  • Kim Ye-rim
  • Ko Eun-bi
  • Jennie (Blackpink)
  • Kwon Ji-ya
  • Lalisa Manoban (Blackpink)
  • Jeon So-mi
  • Lee Ha-eun
  • Lee Ho-jung
  • Lee Jay
  • Lee Ji-hye
  • Lee Jung-hyun
  • Lee Roo-young
  • Lee Seung-mee
  • Lee Song-yi
  • Lee Su-jin
  • Lee Sung-kyung
  • Lee Yeon-joo
  • Nadine Lee
  • Oh Hye-ji
  • Park Jung-min
  • Park Sae-jin
  • Park Su-jin
  • Park Sun-ha
  • Park Yae-woon
  • Shim Soyoung
  • Shin Ha-young
  • Shin Hey-nam
  • Shin Hye-jin
  • Shin Hyun-ji
  • Shin Yae-min
  • Song Hyun-min
  • Song Jae-hee
  • Tiana Tolstoi
  • Um Ye-jin
  • Um Yoo-jung
  • Wu I-Hua
  • Yang Rira
  • Yeo Yeon-hui
  • Yoo Eun-bi
  • Yoon Seon-ah
  • Rosé (Blackpink)

Người mẫu nam

  • Ahn Ju-ni
  • Bae Joon-seok
  • Bang Joo-ho
  • Cheon Sang-hun
  • Cho David
  • Cho Hwan
  • Cho Hyo-in
  • Cho Sung-hoon
  • Choi Chang-wook
  • Choi Han-bin
  • Choi Jeong-gab
  • Choi Yeon-kyu
  • Erick Vic.
  • Go Ung-ho
  • Ha Seok-hwan
  • Han Sol
  • Hwang In-yeop
  • Jang Ki-yong
  • Joo Woo-jae
  • Joel Roberts
  • Jeon Jun-yeong
  • Jeong Rok-hui
  • Jiwon Hyuk
  • Jung Hyo-joon (tham gia Produce 101 mùa 2)
  • Jung Jong-won
  • Jung Sung-joon
  • Jung Ui-sung
  • Jung Yongsoo
  • Kang Hui
  • Kang Hyuk-moon
  • Kang Sung-jin
  • Kang Won-jae
  • Kim Alex
  • Kim Bo-heon
  • Kim Gun-woo
  • Kim Gyu-ho
  • Kim Hak-soo
  • Kim Han-byul
  • Kim Ho-sung
  • Kim Hyun-jin
  • Kim Hyun-woo (ATO6)
  • Kim Jong-hoon
  • Kim Jung-sik
  • Kim Ki-bum
  • Kim Kwan-joon
  • Kim Min-jong
  • Kim Pil-su
  • Kim Seung-eun
  • Kim Seung-hyun
  • Kim Sung-yeon
  • Kim Tae-wan
  • Kim Tae-woo
  • Kim Woo-ram
  • Kim Young-seok
  • Kwon Ju-hyung
  • Lee Bom-chan
  • Lee Gi-hean (ATO6)
  • Lee Hyun-jun
  • Lee Hyun-wook
  • Lee Hyung-seok
  • Lee Jae-seok
  • Lee Jin-kyeong
  • Lee Ji-seok
  • Lee Keun-yong
  • Lee Ki-taek
  • Lee Myoun-gil
  • Lee Seok-chan
  • Lee Soo-min
  • Lee Soo-hyuk
  • Lee Woo-chan
  • Lim Hoo-seok
  • Lim Jae-hyung
  • Meng Joo-ho
  • Nam Goong-dam
  • Nikita Tolstoi
  • Oh Jae-young
  • Park Bo-sung
  • Park Byung-min
  • Park Hong (ATO6)
  • Park Hyeong-seop
  • Park Jong-ik
  • Park Ki-tae
  • Park Yae-chan
  • Seo Soo-won
  • Seo Hong-seok
  • Seok Ji-an
  • Seong Woo-jin
  • Shin Jae-hyuk
  • Shin Dong-ho
  • Shin Yong-guk (ATO6)
  • Son Hyun-woo (ATO6)
  • Viini (cựu thành viên JBJ)
  • Song Kyung-mok
  • Yoo Hyun-woo
  • Yoon Jun-woo
  • Yoon Su-ho
  • Won Jeong Hwang

Thực tập sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Thực tập sinh nữ

  • Vương Tư Dư(Jane) (1999) (thí sinh Idol Producer 3)
  • Kang Seo-jin (2000) (thí sinh Kpop Star Mùa 4)
  • Ngụy Thần(Vicky) (2000) (thí sinh Idol Producer 3)
  • Im Chae-yoon (2002)
  • Ahn Su-bin (2003)
  • Kim Jang-mi (2004)
  • Kim Eun-kyul (2005)
  • Han Byul (2006) (thí sinh Kpop Star Mùa 6)
  • Yang Chae-un (2006)
  • Byun Seo-young (2007)

Thực tập sinh nam

  • Trâu Mộc Lâm(Merle) (1998)
  • Trần Kim Hâm(Jayden) (1998) (thí sinh Idol Producer 4)
  • Ức Hiên(Kingston) (1999) (thí sinh Idol Producer 4)
  • Đỗ Ái Kiệt(Dimo) (2002)
  • Kim Yeon-gue (2004) (tham gia YG Treasure Box)
  • Lee In-hong (2004) (tham gia YG Treasure Box)
  • Ngụy Tinh Chưng(Vic)
  • [(kim lan hyang)]

Cựu nghệ sĩ và diễn viên[sửa|sửa mã nguồn]

Cựu nghệ sĩ[sửa|sửa mã nguồn]

Cựu diễn viên[sửa|sửa mã nguồn]

YG Family Concerts và Tours[sửa|sửa mã nguồn]

  • One Concert 2003 (Hàn Quốc)
  • Color of the Soul Train 2003 (Hàn Quốc)
  • One Concert 2004 (Hàn Quốc)
  • Thank U Concert 2005 (Hàn Quốc)
  • One Concert 2005 (Hàn Quốc)
  • 10th Anniversary World Tour 2006 (Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ)
  • One Concert 2007 (Hàn Quốc)
  • Concert 2010 (Hàn Quốc)
  • YG Family Concert 2012 (Hàn Quốc Nhật Bản)
  • YG Family Concert 2014:POWER (Vòng quanh thế giới)

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng tương ứng, hoặc thẻ đóng

bị thiếu

Xổ số miền Bắc