AKB48 – Wikipedia tiếng Việt

AKB48 (tiếng Nhật: エーケービー フォーティーエイト, chuyển tự Ēkēbī Fōtīeito, tiếng Anh: A.K.B. Forty-Eight) là một nhóm nhạc thần tượng nữ Nhật Bản do Akimoto Yasushi sáng lập năm 2005[2], được mô tả như là một hiện tượng xã hội[3]. Hiện nay, nhóm có khoảng 600 thành viên ở độ tuổi từ 13 đến giữa độ tuổi 29[4].AKB48 hiện đang nắm giữ kỷ lục Guinness về “Nhóm nhạc Pop có số lượng thành viên đông nhất”[5]. Họ cũng là một trong những nhóm nhạc có doanh thu cao nhất trên thế giới, với doanh thu kỷ lục bán đĩa năm 2011 là trên 211 triệu USD và năm 2012 là 226 triệu USD chỉ riêng ở Nhật Bản.[6][7]

Tính đến năm 2018, AKB48 trở thành nhóm nhạc có doanh thu bán đĩa kỉ lục 56 triệu bản được bán ra theo Oricon[8].Đĩa đơn bán chạy nhất của nhóm “Teacher,Teacher” bán được hơn 3 triệu bản trong năm 2018 theo Billboard/Soundscan [9] và tổng cộng tất cả 3,8 triệu phiếu bầu đĩa đơn tổng tuyển cử (nếu tính thêm hình thức bỏ phiếu khác). Trong năm 2010, ca khúc “Beginner” và “Heavy Rotation” xếp hạng đầu tiên và thứ 2 trong danh sách đĩa đơn bán chạy nhất Nhật Bản trong năm,[10] trong khi vào năm 2011, 5 đĩa đơn của nhóm chiếm đóng cả 5 vị trí đầu Bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon hàng năm [11]. Tính đến tháng 4/2019, nhóm bán được hơn 60 triệu bản ghi âm[12], bao gồm 6 triệu bản album, và theo bảng xếp hạng của Oricon, AKB48 giữ kỷ lục cho lượng đĩa đơn bán ra tại Nhật Bản bởi một nhóm nhạc nữ, nhóm đứng thứ 5 trong danh sách nhóm nhạc nữ bán chạy trên toàn thế giới[13]. Từ 2010 đến 2020, các đĩa đơn của nhóm đã chiếm ít nhất 2 vị trí đầu của Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng năm của Oricon.

[external_link_head]

Không giống như các nhóm nhạc thần tượng khác ở Nhật Bản, AKB48 hoạt động theo mô hình “Thần tượng mà bạn có thể gặp mặt” (“Idol you can meet”) và có nhà hát riêng ở Akihabara, Tokyo, đặt trên tầng 8 tòa nhà Don Quijote, nơi họ biểu diễn trong tuần và có nhiều suất diễn vào thứ 7 và chủ nhật, nhóm có các buổi concert tại các sự kiện trước công chúng cùng sự kiện “bắt tay” (Handshake Event), nơi người hâm mộ có thể gặp các thành viên trong nhóm. Một đĩa đơn hiện tại của AKB48 chứa từ 4 đến 5 bài hát (kèm 4-5 PV [Promotional video– Phim video quảng bá] của bài đó) nhưng chỉ bài hát chính được quảng bá trên các chương trình âm nhạc, truyền hình, quảng cáo và phim. Akimoto đã mở rộng mô hình trên thành một số nhóm chị em ở Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Phillippines và Việt Nam.

Mục lục bài viết

Khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà hát AKB48 tại Akihabara, Tokyo

AKB48 ra đời theo mô hình “Thần tượng mà bạn có thể gặp mặt” (Idol you can meet). Thần tượng Nhật Bản là những nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp thu hút sự ủng hộ của fan, việc tương tác với họ giúp nhóm duy trì và gia tăng lượng fan hâm mộ trung thành. Akimoto Yasushi cho biết ông muốn tạo ra nhóm nhạc thần tượng độc đáo & không giống như các nhóm nhạc khác, họ sẽ biểu diễn tại các buổi concert, chủ yếu xuất hiện trên truyền hình và sẽ biểu diễn thường xuyên tại nhà hát của chính họ, ngoài ra fan hâm mộ có thể gặp các thành viên trong nhóm trực tiếp tại các sự kiện “bắt tay” (Handshake Event).

Nhóm được chia thành nhiều đội (Team), để giảm bớt khối lượng công việc của các thành viên (vì suất diễn gần như hàng ngày của nhà hát chỉ có một team tại một thời điểm) và cho phép AKB48 biểu diễn đồng thời ở một số nơi. Theo cựu thành viên Iwasa Misaki, mỗi team có một hình tượng riêng: Team A đại diện cho tự do, Team B gắn với hình tượng thần tượng cùng trang phục dễ thương, còn Team K gắn với hình tượng mạnh mẽ. Ban đầu, mỗi team sẽ có 16 thành viên với tổng số là 48, nhưng số thành viên của nhóm đã thay đổi theo thời gian, và đã vượt quá 120 người. Các thành viên mới được gọi là thực tập sinh (研究生, kenkyūsei) sẽ có thời điểm biểu diễn thay thế.[14]

Nhắc đến AKB48, nhiều người nghĩ rằng số lượng thành viên của nhóm là 48 người. Tuy nhiên, số 48 được lấy từ tên văn phòng hội chủ tịch, “office48” đặt ở tỉnh Chiba, và trong tiếng Nhật thì “Chiba” đọc giống “48”. Đây cũng là “đại bản doanh” nơi những cô gái thường xuyên biểu diễn.[15]

Độ tuổi của các thành viên từ thiếu niên đến hơn 20 và được chọn từ các buổi thử giọng. Các thành viên không được phép hẹn hò và phải ửng xử tốt trước công chúng[16]; nếu vi phạm sẽ bị phạt, nặng nhất là bị đuổi khỏi nhóm. AKB48 có một hệ thống cho phép các thành viên “tốt nghiệp”- nghĩa là rời khỏi nhóm và được thay thế bằng các thực tập sinh được thăng cấp, đồng thời sẽ có buổi biểu diễn tốt nghiệp trước khi rời nhóm.[17][18]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

2005–2006: Ra đời & 2 thế hệ đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 chuẩn bị cho buổi ra mắt vào tháng 3/2006

Vào tháng 7 năm 2005, Akimoto Yasushi tổ chức buổi thử giọng để ra mắt nhóm nhạc nữ mới. Trong số 7.924 người tham gia, 24 người được chọn là thành viên thuộc thế hệ đầu tiên, sau đó họ trải qua 1 tháng huấn luyện trước khi ra mắt[19]. Ngày 8 tháng 12, nhóm ra mắt tại nhà hát với 20 cô gái là tiền thân của Team A[20], họ biểu diễn “Party ga Hajimaru yo” (PARTY が 始 ま る よ) trước 7 khán giả và tăng dần sau đó. 20 cô gái đó là: Itano Tomomi, ‪Kawasaki Nozomi, Kojima Haruna, Komatani Hitomi, Maeda Atsuko, Masuyama Kayano, Minegishi Minami, Nakanishi Rina, Narita Risa, Ohe Tomomi, Oshima Mai, ‪Sato Yukari, Takahashi Minami, Tojima Hana, Usami Yuki, Orii Ayumi, Hoshino Michiru, Urano Kazumi, Watanabe Shiho, và Hirajima Natsumi[21] Vào tháng 1 năm 2006, Shinoda Mariko gia nhập Team A với tư cách là thành viên “thế hệ 1.5” khi trước đó cô không vượt qua được vòng tuyển chọn nhưng quyết tâm tìm cơ hội gia nhập nhóm bằng cách làm phục vụ tại quán cafe gần nhà hát, các fan đã gửi thư xin cho cô một cơ hội nữa (để được vào nhóm, cô đã học thuộc lời và vũ đạo của tất cả 16 bài A1 Stage chỉ trong 4 ngày)[22]

Buổi thử giọng thứ 2 được tổ chức với sự hợp tác cùng nhà mạng NTT DoCoMo vào tháng 2 năm 2006, lần này các ứng viên gửi video thử giọng qua điện thoại. Trong số 11.892 người tham gia, 19 ứng viên đã được chọn và 17 người gia nhập Team K vào tháng 4: Akimoto Sayaka, Umeda Ayaka, Oshima Yuko, Ohori Megumi, Oku Manami, Ono Erena, Kasai Tomomi, Kobayashi Kana, Sato Natsuki, Noro Kayo, Hayano Kaoru, Masuda Yuka, Matsubara Natsumi, Miyazawa Sae, Imai Yu, Uemura Ayako, và Takada Ayana [23], Team K biểu diễn Party ga Hajimaru yo, trong khi Team A chuyển sang biểu diễn Aitakatta[24][25]

AKB48 phát hành đĩa đơn đầu tiên “Sakura no Hanabiratachi” vào tháng 2 năm 2006, lọt vào bảng xếp hạng Top 10 hàng tuần của Oricon với doanh thu tuần đầu là 22.011 bản[26]. Ngày 31 tháng 3, Usami Yuki -thành viên của Team A là người đầu tiên tốt nghiệp[27]. Vào ngày 7 tháng 6, nhóm phát hành đĩa đơn thứ hai “Skirt, Hirari”, bán được 13.349 bản trong ngày đầu tiên[28]. Nhóm xuất hiện trên truyền hình 2 ngày sau, và ký hợp đồng với DefStar Records (công ty con của Sony Music Entertainment) vào tháng 8.[29]

2006–2007: Set List: Greatest Songs 2006–2007[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 10 năm 2006, AKB48 công bố buổi thử giọng cho Team B để tuyển thành viên thế hệ thứ 3[30], đã có 13 cô gái được chọn trong số 12.828 người tham gia, đó là: Inoue Naru, Oota Aika, Kashiwagi Yuki, Katayama Haruka, Kikuchi Ayaka, Saotome Miki, Tanabe Miku, Nakagawa Haruka, Nakaya Sayaka, Noguchi Reina, Matsuoka Yuki, Yonezawa Rumi, và Watanabe Mayu.[31][32]

Đĩa đơn đầu tay dưới thời DefStar Records, “Aitakatta”, do 20 thành viên Team A và K thực hiện phát hành vào ngày 25 tháng 10, ra mắt ở vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon, bán được 25.544 bản trong 6 tuần đầu tiên[33], và có tổng cộng 65 tuần trên bảng xếp hạng[34]. Vào 3–4 tháng 11, nhóm biểu diễn buổi concert đầu tiên, “AKB48 First Concert: Aitakatta ~ Hashira wa Nai ze! ~” tại Nippon Seinenkan ở Shinjuku. Vào tháng 12, sự thay đổi đầu tiên đã được thực hiện: Urano Kazumi, Watanabe Shiho và Hirajima Natsumi chuyển từ Team A sang Team B để hỗ trợ đàn em.

Đĩa đơn thứ 2 “Seifuku ga Jama o Suru” phát hành vào ngày 31 tháng 1 năm 2007[35], ra mắt ở vị trí thứ 7 trên bảng xếp hạng Oricon Top 10. MV và lời bài hát gây ra tranh cãi và đánh giá tiêu cực vì có liên quan đến “Enjo-kosai”[a]. Vào ngày 18 tháng 3, AKB48 phát hành “Keibetsu Shiteita Aijō”; ra mắt ở vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Oricon, tụt xuống hạng 98 trong tuần thứ 2. Buổi concert thứ 2 “AKB48 Haru no Chotto dake Zenkoku Tour ~ Madamada daze AKB48! ~” vào ngày 10 tháng 3[36], có doanh thu bán vé kém[37].

Vào tháng 4 năm 2007, AKB48 đăng danh sách Team B trên trang web nhóm, ít hơn 5 thành viên so với ban đầu, lần đầu tiên số thành viên của nhóm là 48. Đĩa đơn thứ 4, “Bingo!”, phát hành vào ngày 18 tháng 7[38]. Đĩa đơn thứ 6- “Yūhi o Miteiru ka?”, phát hành vào Halloween 2007 và bán được 18.429 bản[39] (ít nhất trong tất cả các đĩa đơn của nhóm)[40].Nhóm biểu diễn “Aitakatta” trong chương trình truyền hình đêm giao thừa NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 58 tại phần “Nihon ga Hokoru Saisentan! Special Medley”. Với 43 thành viên, nhóm lập kỷ lục về “bài hát có nhiều thành viên nhất trong một nhóm cùng biểu diễn trên sân khấu”.

2008–2010: Kamikyokutachi[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu năm 2008, AKB48 phát hành album đầu tiên Set List: Greatest Songs 2006–2007. Đĩa đơn thứ 7 (thứ 9 tổng thể) “Romance, Irane”, phát hành vào ngày 23 tháng 1 và đứng thứ 6 trên bảng xếp hạng Oricon Top 10 trong tuần đầu tiên.[41]

AKB48 biểu diễn tại Japan Expo ở Paris năm 2009

Vào ngày 27 tháng 2, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 8 “Sakura no Hanabiratachi 2008”- tải bản đĩa đơn đầu tay từ Team A, do 10 thành viên Team A, 6 từ Team K và 5 từ Team B thể hiện[42]. CD của đĩa đơn bao gồm poster, và chương trình quảng bá trong đó fan hâm mộ thu thập 44 poster sẽ được mời tham gia sự kiện đặc biệt. Chương trình sau đó đã bị DefStar Records hủy bỏ do lo ngại về khả năng vi phạm luật chống độc quyền.[43]

Vào tháng 6 năm 2008, AKB48 thành lập nhóm chị em SKE48 tại Sakae, Nagoya[44]. Vào tháng 8, nhóm chuyển từ hãng đĩa DefStar Records sang King Records, Ayaka Kikuchi là thành viên đầu tiên bị đuổi khỏi nhóm vì vi phạm kỷ luật khi để lộ ảnh chụp với bạn trai[45]. Kikuchi trở lại nhóm sau buổi thử giọng năm 2010.[46]

Nhóm ra mắt chương trình tạp kỹ riêng AKBINGO! đầu tháng 10, vào ngày 22 tháng 10, đĩa đơn thứ 10 “Ōgoe Diamond” phát hành dưới hãng đĩa You Be Cool!/ KING RECORDS[47]. Với sự xuất hiện của Matsui Jurina (11 tuổi khi đó) làm center (thành viên trung tâm) cũng như trên bìa đĩa, đây là đĩa đơn đầu tiên có sự góp mặt của một thành viên trong nhóm chị em của AKB48[48] và ra mắt ở vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Oricon Top 10 hàng tuần.[49]

Nhóm phát hành đĩa đơn thứ 11 “10nen Sakura” vào ngày 4 tháng 3 năm 2009, đạt vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng Oricon tuần đầu, đây là đĩa đơn đầu tiên bán được hơn 100.000 bản[50]. Đĩa đơn thứ 12 “Namida Surprise!” phát hành vào ngày 24 tháng 6 bán được 104.180 bản trong tuần đầu tiên trên bảng xếp hạng Oricon[51]. Đĩa đơn thứ 13 “Iiwake Maybe” phát hành ngày 26 tháng 8 [52]. Vượt mặt đối thủ SMAP, đĩa đơn đạt vị trí số 1 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng ngày và hạng 2 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần của Oricon.[53]

Team A là khách mời danh dự tại Japan Expo ở Paris từ 2 đến 5 tháng 7 năm 2009, biểu diễn “Ōgoe Diamond” bản tiếng Anh[54]. Nhóm ra mắt tại Hoa Kỳ với buổi biểu diễn tại Webster Hall ở New York vào 27 tháng 9.[55]

Vào tháng 10, 3 đĩa đơn “10nen Sakura”, “Namida Surprise!”“Iiwake Maybe” được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cấp chứng nhận vàng.[56] Đĩa đơn thứ 14 “River” phát hành vào ngày 21 tháng 10 đứng đầu bảng xếp hạng Top 10 Oricon hàng tuần và là đĩa đơn đứng hạng 1 đầu tiên của nhóm.[57]

Vào ngày 31 tháng 12, AKB48 biểu diễn bản remix đặc biệt RIVER-Surprise tại NHK Kouhaku uta gassen lần thứ 60. 72 thành viên từ AKB48 bao gồm thực tập sinh và 3 thành viên SKE48 tham gia biểu diễn.

Nhóm phát hành đĩa đơn thứ 15 “Sakura no Shiori” vào ngày 17 tháng 2 năm 2010. Trong tuần đầu tiên, đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng Oricon với hơn 300.000 bản được bán ra, kỷ lục của một nữ nghệ sĩ Nhật Bản trong 7 năm[58]. Đây là đĩa đơn cuối cùng của nhóm đến khi phát hành album đầu tiên thuộc King Records “Kamikyokutachi” đứng đầu bảng xếp hạng album Oricon và được RIAJ chứng nhận đĩa bạch kim kép với doanh số hơn 500.000 bản.[59]

2010–2011: Koko ni Ita Koto[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm phát hành đĩa đơn thứ 16 – “Ponytail to Chouchou” vào ngày 26 tháng 5 năm 2010, vượt xa so với trước đó với hơn 400.000 bản được bán ngày đầu tiên và hơn 513.000 bản trong tuần đầu tiên[60]. Vào ngày 27 tháng 4, Anime Expo thông báo AKB48 sẽ là khách mời danh dự và nhóm biểu diễn vào ngày 1 tháng 7 tại Nokia Theatre.[61] Nhóm ra mắt single thứ 17- Heavy Rotation (ヘビーローテーション) vào 18/8, trụ vững trên bảng xếp hạng JOYSOUND trong 43 tuần[62] Nhóm mở cửa hàng ra nước ngoài tại Hong Kong vào tháng 8, sau đó mở rộng sang Đài Loan (tháng 4/2011), Singapore (tháng 5/2011), Thượng Hải (tháng 7/2011).

AKB48 biểu diễn tại Anime Festival Asia 2010

Vào ngày 23 tháng 10, AKB48 đại diện cho Nhật Bản dự Asia Song Festival lần thứ 7 do Quỹ Trao đổi Văn hóa Quốc tế Hàn Quốc (Korea Foundation for International Culture Exchange-KOFICE) tổ chức tại Sân vận động Olympic Seoul. Bốn ngày sau, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 18- “Beginner”, bán được 826.989 bản trong tuần đầu, doanh số cao nhất trong tuần đầu tiên cho đĩa đơn của một nhóm nhạc thần tượng nữ[63][64]. Thành viên Watanabe Mayu xuất hiện trên bìa tạp chí thần tượng UP to boy số tháng 12 cùng Airi Suzuki của nhóm nhạc nữ đồng hương Cute- sự hợp tác đầu tiên giữa Hello! Project và AKB48.[65]

Vào tháng 11/2010, AKB48 tham gia một số sự kiện bên ngoài Nhật Bản: Vào ngày 20 tháng 11, 12 thành viên biểu diễn tại Japanese Pop Culture Festival ở Moscow[66]. Nhóm biểu diễn tại Singapore trong sự kiện Anime Festival Asia X và tại Singapore Toy, Games and Comics Convention[67][68]. Những thành viên tốt nghiệp năm 2010 bao gồm thành viên thế hệ thứ 2 Erena Ono, người rời đi vào ngày 27 tháng 9 để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất ở nước ngoài.[69][70]

AKB48 tham dự Asia Song Festival 2010 tại Hàn Quốc

Vào ngày 8/12, AKB48 kỷ niệm 5 năm ra mắt với buổi biểu diễn đặc biệt tại nhà hát cùng tất cả các thành viên, bao gồm các thành viên tốt nghiệp. Tất cả thực tập sinh thế hệ thứ 9 cũng được thăng cấp.[71]

Vào năm 2011, nhóm ra mắt đĩa đơn thứ 20- “Sakura no Ki ni Narō” phát hành vào ngày 16 tháng 2, bán được 655.000 bản trong ngày đầu tiên, vượt qua con số 568.000 bản của “Beginner”[72][73]. Vào cuối tuần đầu tiên, đĩa đơn đã bán được 942.479 bản, đây là đĩa đơn bán được nhiều nhất và nhanh nhất của nhóm tại Nhật Bản kể từ năm 2000[74], nhóm ra mắt bộ phim tài liệu đầu tiên DOCUMENTARY of AKB48 to be continued “10 Nengo, Shoujo Tachi wa Ima no Jibun ni Nani o Omou Nodarou?” vào ngày 22 tháng 1.[75]

Vào ngày 21 tháng 2, nhóm công bố album thứ 3 Koko ni Ita Koto (こ こ に い た こ と) bao gồm 11 bài hát và dự kiến ​​phát hành vào ngày 6 tháng 4[76]. Do ảnh hưởng từ trận động đất và sóng thần Tōhoku 2011, nhóm dừng các buổi biểu diễn tại Nhà hát và hủy bỏ một số sự kiện trước công chúng. AKB48 bắt đầu dự án quyên góp cứu trợ nạn nhân động đất và sóng thần “Dareka no Tame ni” (誰かのために). Yokohama Arena- một trong những địa điểm tổ chức, được sử dụng cho sự kiện từ thiện kéo dài 2 ngày từ 26 tháng 3 và 12 thành viên nhóm đã tham dự Liên hoan phim quốc tế Okinawa hôm đó với mục đích tương tự. Vào ngày 15 tháng 3, AKB48 cùng các nhóm chị em SKE48, SDN48 và NMB48 và các cộng sự từ công ty quản lý AKS đã quyên góp 500 triệu yên cho việc cứu trợ[77]. Việc phát hành Koko ni Ita Koto bị hoãn lại cho đến ngày 8 tháng 6, với một phần số tiền thu được dành để quyên góp cho các nạn nhân[78]. Vào ngày 1 tháng 4, nhóm phát hành đĩa đơn từ thiện “Dareka no Tame ni-誰かのために”  dưới dạng kỹ thuật số, tất cả số tiền thu được dành cho cứu trợ các nạn nhân động đất và sóng thần.[79]

2011–2012: 1830 m[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm công bố ra mắt nhóm chị em HKT48 tại Fukuoka- Kyushu, đặt nhà hát tại Hawks Town Mall vào 1/5/2011[80], sau đó 2 ngày nhóm thông báo mở nhà hát tại Singapore đặt tại *scape Youth Park, cùng cửa hàng AKB48 shop, nhóm là khách mời biểu diễn tại lễ trao giải Golden Melody Awards thứ 22 vào tháng 6[81]

Nhóm ra mắt single thứ 21-“Everyday, Kachūsha” vào 25/5, đạt kỷ lục tẩu tán trong 1 ngày (942,475 bản) cũng như trong 1 tuần (0969756783 bản)[82] Nhóm ra mắt Team 4 vào 7/6, với 16 thành viên do Mina Ōba làm đội trưởng, đến 28/6, Akimoto Yasushi công bố ra mắt nhóm Nogizaka46 (乃木坂46)- được coi là “đối thủ chính thức” (公式ライバル kōshiki raibaru) của AKB48 với 20 thành viên, ông đồng thời hợp tác cùng Sony Music Japan cho việc phát triển nhóm[83]

Cửa hàng AKB48 tại Singapore

Nhóm ra mắt single thứ 22- “Flying Get” (フライングゲット, Furaingugetto), bán được 0969756783 bản trong 1 ngày, đồng thời là single thứ 4 bán được hợn 1 triệu bản trong tuần đầu (1,354 triệu bản)[84], 2 single tiếp theo “Kaze wa Fuiteiru” (26/0969756783 bản) + “Ue kara Mariko” (7/0969756783 bản) đều vượt mốc 1 triệu bản trong tuần đầu[85][86], riêng single “Flying Get” (フライングゲット, Furaingugetto) đat giải Grand Prix tại lễ trao giải Japan Record Awards lần thứ 53

[external_link offset=1]

Sang năm 2012, Oricon công bố nhóm đá bán được 0969756783 bản CD, vượt mặt nhóm  Morning Musume (0969756783 bản) trước đó, nhóm nhỏ Baby Blossom trình diễn single thứ 25 “Give Me Five!” tại sự kiện “AKB48 Request Hour Set List Best 0969756783” ngày 22/1, sau đó ra mắt vào 15/2

Phim tài liệu thứ 2 – Documentary of AKB48: Show Must Go On Shōjo-tachi wa Kizutsuki Nagara, Yume wo Miru, công chiếu ngày 27/1 thu về 4 triệu USD doanh thu, phim anime AKB0048 phát sóng từ 29/4 đến 22/7 do Yoshimasa Hiraike đạo diễn, cùng Akimoto sản xuất và viết kịch bản, 9 thành viên của AKB48 cùng các nhóm chị em lồng tiếng cho các nhân vật chính, hát ca khúc chủ để mở màn & kết phim

2 thành viên Matsui Jurina (SKE48) và Watanabe Miyuki (NMB48) thay thế Natsumi Hirajima và Rumi Yonezawa do vi phạm kỷ luật[87][88], nhóm quyết định 5 thực tập sinh sẽ thắng cấp vào Team 4, nâng số thành viên lên 16, nhóm sẽ trình diễn tại Tokyo Dome- điều nhóm quyết tâm thực hiện từ khi ra đời[89][90] Thành viên Maeda Atsuko thông báo rời nhóm vào 25/3, do đó AKB48 quyết định cô sẽ có buổi biểu diễn tốt nghiệp tại Tokyo Dome vào 26/8[91][92]

Vào 26/3, nhóm công bố buổi Tổng tuyển cử cho single thứ 27- “Gingham Check”, với 243 thành viên từ các nhóm chị em tham dự, cùng việc bỏ phiếu cho single thứ 26- (“Manatsu no Sounds Good!”). Tổng tuyển cử tổ chức hôm 6/6, Oshima Yuko cùng Watanabe Mayu và Kashiwagi Yuki là 3 thành viên xếp hạng cao nhất

AKB48 công bố nhóm nhạc chị em nước ngoài thứ 3- SNH48 đặt tại Thượng Hải- Trung Quốc[93], Sashihara Rino chuyển sang nhóm HKT48 do scandal đời tư[94], 6 thành viên thuộc 2 thế hệ 10, 11 thăng cấp ngày 24/6[95], cùng cuộc thi oẳn tù tì để tìm đội hình cho single thứ 29- “Eien Pressure”[96]

Nhóm ra mắt album thứ 4- 1830m vào 15/8[97], sau đó 9 ngày nhóm công bố sắp xếp lại đội hình vào buổi concert tại Tokyo Dome: Team 4 giải thể, các thành viện sẽ chuyển sang 3 team còn lại, Oota Aika sang HKT48,  Haruka Nakagawa sang nhóm JKT48 tại Indonesia, Sae Miyazawa + Mariya Suzuki sang nhóm SNH48, Minami Takahashi trở thành tổng quản của AKB48, các đội trưởng Team A, Team K, Team B lần lượt thuộc về Shinoda Mariko, Oshima Yuko và Umeda Ayaka[98]

2012–2014: Tsugi no Ashiato[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt ca khúc nhạc phim Wreck-It Ralph– “Sugar Rush”, lập kỷ lục Guinness cho nhóm nhiều thành viên nhất trong game (AKB1/149 Ren’ai Sōsenkyo), single thứ 26 có lần thứ 2 liền đạt giải tại Japan Record Award lần thứ 54 ngày 30/12. Nhóm đứng đầu về tổng doanh thu tại Nhật Bản năm 2012 với 19,098 tỷ yên. Nhóm ra mắt single thứ 30- “So long!” vào 20/2[99]

Phim hoạt hình AKB0048 ra mắt mùa 2- AKB0048 Next Stage, chiểu từ 5/1 đến 30/3/2013, vào tháng 1 nhóm tổ chức concert Request Hour Set List Best 100 tại Tokyo Dome City Hall, đồng thời công bố 2 show diễn tại Nippon Budokan và Sân vận động Nissan, vào 1/2 phim tài liệu Documentary of AKB48: No Flower Without Rain: Shōjo Tachi wa Namida no Ato ni Nani o Miru? ra mắt công chúng, thành viên Itano Tomomi công bố tốt nghiệp cùng ngày, nhóm công bố sắp xếp đội hình vào concert tại Nippon Budokan ngày 28/4

Nhóm ra mắt single thứ 31- “Sayonara Crawl” vào 22/5, bán được hơn 1,9 triệu bản sau 1 tháng, đây là bài hát đầu tiên có 4 center (Oshima Yuko, Itano Tomomi, Shimazaki Haruka và Watanabe Mayu)[100], nhóm tổ chức Tổng tuyển cử lần thứ 5 với 243 thành viên tham dự, Sashihara Rino giành hạng nhất, đội trưởng Team A Mariko Shinoda công bố sẽ rời nhóm vào tháng 7, cựu thành viên Maeda Atsuko ra mắt single solo (“Time Machine Nante Iranai”)

Nhóm ra mắt single thứ 32- “Koisuru Fortune Cookie” vào 21/8, với 3800 người tham dự quay MV, nhiều nhất từ khi ra mắt,[101][102] nhóm công bố mở lại Team 4 vào 24/8, theo đó Minami Minegishi là đội trưởng, cùng các thành viên thực tập sinh thăng hạng của 2 thế hệ 13-14

Nhóm tổ chức cuộc thi oẳn tù tì cho single thứ 34, tổ chức tại Nippon Budokan vào 18/9, Matsui Jurina là người chiến thắng, sau đó nhóm công bố đội hình và biểu diễn single thứ 33- “Heart Ereki” ra mắt 30/10[103], vào 11/11 single thứ 34 “Suzukake no Ki no Michi de ‘Kimi no Hohoemi o Yume ni Miru’ to Itte Shimattara Bokutachi no Kankei wa Dō Kawatte Shimau no ka, Bokunari ni Nan-nichi ka Kangaeta Ue de no Yaya Kihazukashii Ketsuron no Yō na Mono” ra mắt, thành viên chủ lực Yuko Oshima tuyên bố sẽ rời nhóm tại sự kiện Kōhaku Uta Gassen[104], nhóm đứng #2 về tổng doanh thu tại Nhật Bản năm 2013, với 13,254 tỷ yên.[105]

Vào 22/1/2014, nhóm ra mắt album thứ 5 Tsugi no Ashiato, bán được 962000 bản[106], nhóm ra mắt single thứ 35- “Mae shika Mukanee” vào 26/2, bán được 970,413 bản trong ngày đầu tiên[107] Nhóm công bố ra mắt Team 8, với 47 thành viên đại diện 47 tỉnh thành, đồng thời sắp xếp đội hình với việc ra mắt đội phó, thăng cấp cho các thực tập sinh, chuyển thành viên…vào 24/2. Nhóm công bố đội hình Team 8 vào 3/4 với mô hình “những thần tượng đến với bạn” (the idols who come to you)[108][109]. Akimoto Yasushi thông báo về buổi thử giọng cho một thành viên trên 30 tuổi, tham gia vào các sự kiện và quảng cáo Glico Papico. Vào ngày 16 tháng 4, AKB48 công bố thành viên Otona: Tsukamoto Mariko, một bà nội trợ 37 tuổi và là mẹ của 2 đứa con.[110]

Nhóm ra mắt single thứ 36- “Labrador Retriever” vào 26/2, với 0969756783 bản được bán ra trong ngày đầu[111], cuộc Tổng tuyển cử cho single thứ 37 diễn ra ngày 7/6 chứng kiến Watanabe Mayu đứng nhất với 159.854 phiếu bầu, cô làm center cho bài hát Kokoro no Placard ra mắt ngày 27/8, Sashihara Rino về nhì với 141.954 phiếu bầu[112]. Phim tài liệu thứ 4 DOCUMENTARY of AKB48 The time has come phát hành vào 4/7, cùng single thứ 38 Kibouteki Refrain phát hành ngày 26/11[113]

Vào 8/12, Takahashi Minami- thành viên kiêm tổng quản tuyên bố sẽ rời nhóm vào 12/2015 nhân dịp nhóm kỷ niệm 10 năm ra mắt, cô chọn Yokoyama Yui là người kế nhiệm[114][115]. Nhóm đứng thứ 2 trong xếp hạng Tổng doanh thu cho nghệ sĩ của Orion năm 2014 với 13,075 tỷ yên[116]

2015: Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!0 to 1 no Aida[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt album phòng thu thứ 6 Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe! vào ngày 21/1/2015[117], vào ngày 4/3 nhóm phát hành single thứ 39 “Green Flash”[118][119], trở thành nhóm nhạc đầu tiên có 20 album liền đạt 1 triệu bản bán ra tuần đầu tiên. Thành viên Kawaei Rina tuyên bố tốt nghiệp vào 26/3 để tập trung cho sự nghiệp của bản thân, cô tiết lộ trước đó đã suy nghĩ kỹ về tương lai của mình mà không phụ thuộc vào nhóm[120][121]

Cửa hàng AKB48 tại Đài Loan

Nhóm có lần thứ 2 làm khách mời của Ngày hội Nhật Bản hàng năm tại New York vào 10/5, các thành viên Rina Hirata, Ryoka Oshima, Haruna Kojima, Tomu Mutou, Saho Iwatate và Rina Nozawa biểu diễn 5 bài hát trước 5000 khán giả[122][123]

Vào ngày 20/5, nhóm ra mắt single thứ 40 “Bokutachi wa Tatakawanai”, với 0969756783 bản bán ra trong ngày đầu, phá kỷ lục trước đó của Labrador Retriever.[124]

Vào ngày 6/6, nhóm công bố kết quả cuộc tổng tuyển cử thứ 7 tổ chức tại Fukuoka Yahoo! Auctions Dome, với tổng cộng 3,2 triệu phiếu bầu cho các thành viên. Thành viên Sashihara Rino (HKT48- team H) giành hạng nhất lần thứ 2 với 194.049 phiếu bầu[125][126], trở thành Senbatsu Center cho single thứ 41 “Halloween Night” ra mắt ngày 26/8[127]

Vào ngày 25/10, trong sự kiện bắt tay cùng fan, nhóm công bố ra mắt single thứ 42- Kuchibiru ni Be My Baby ra mắt ngày 9/12 cùng concert Request Hour 2016, Takahashi Minami được chọn là Center cho bài hát- lần cuối cùng của cô cho nhóm.[128] Single bán được 813,044 bản trong ngày đầu ra mắt, nâng tổng số bản nhóm bán ra lên 0969756783 album đĩa đơn, giúp nhóm vượt mặt nhóm nhạc rock B’z trở thành nghệ sỹ có lượng album đơn bán ra cao nhất tại Nhật Bản,[129]

Nhóm ra mắt album thứ 7- 0 to 1 no Aida, nhân dịp kỷ niệm 10 năm nhóm ra đời vào ngày 18/11[130]

2016–2017: Thumbnail[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 24/1/2016, trong ngày cuối show Request Hour 2016 tại Tokyo Dome City, nhóm trình làng ca khúc thuộc single thứ 43 “Kimi wa Melody”- ra mắt ngày 9/3[131], đây là single thứ 2 đánh dấu sự trở lại của  Maeda Atsuko, Oshima Yuko, Shinoda Mariko và Itano Tomomi, còn Miyawaki Sakura là center lần đầu tiên cho nhóm[132]

Vào tháng 2, thành viên người Đài Loan Mã Gia Linh (Ma Chia-ling) gia nhập nhóm thông qua vòng tuyển chọn tại Đài Loan trước đó, cô là thành viên ngoại quốc đầu tiên và duy nhất hoạt động cho AKB48[133][134]

Nhóm phát hành single thứ 44 “Tsubasa wa Iranai” vào 1/6[135], Mukaichi Mion là center lần đầu tiên, nhóm tổ chức Tổng tuyển cử vào 18/6, thành viên Sashihara Rino đạt hạng nhất với 243.011 phiếu bầu, nhóm phát hành single thứ 45 “LOVE TRIP / Shiawase wo Wakenasai” vào 31/8[136], nhóm tổ chức cuộc thi oẳn-tù-tì lần thứ 7 vào tháng 9, Tanabe Miku là người chiến thắng, làm center của nhóm nhỏ mới Jankenmin với các thành viên chiến thắng trong top 7, single Sakazaka của nhóm phát hành tháng 12, các thành viên xếp hạng từ #8 đến #14 sẽ xuất hiện trong bài hát đính kèm và PV. Vào 3/10, Shimazaki Haruka thông báo tốt nghiệp, cô có lần cuối xuất hiện làm center khi nhóm ra mắt single thứ 46 “High Tension” vào 16/11 và chính thức tốt nghiệp ngày 31/12 [137].

Vào 12/12, Watanabe Mayu, Izuta Rina và Kawamoto Saya thông báo thành lập chi nhánh AKB48 China tại Trung Quốc trong một cuộc họp báo và gặp gỡ người hâm mộ tại Thượng Hải. Khác với SNH48 trước đó, AKB48 China sẽ đóng vai trò cầu nối giữa Nhật Bản và Trung Quốc, đưa các thành viên Nhật Bản đến Nhà hát AKB48 Trung Quốc trong tương lai.[138]

Nhóm phát hành album phòng thu thứ 8 “Thumbnail” vào 25/1/2017[139], nhóm ra mắt single thứ 47 “Shoot Sign”- là single cuối cùng Kojima Haruna hoạt động cùng nhóm[140]. Single thứ 48 Negaigoto no Mochigusare bán được 0969756783 bản trong tuần đầu[141] Phim tài liệu thứ 5- DOCUMENTARY of AKB48 Sonzai suru Riyuu, ra mắt công chúng vào 8/7[142] Nhóm tổ chức Tổng tuyển cử vào 17/6, Sashihara Rino đạt hạng nhất năm thứ 3 liên tiếp với 246.376 phiếu bầu[143], làm center cho single thứ 49 “#sukinanda” phát hành ngày 30/8[144] Watanabe Mayu thông báo tốt nghiệp trong sự kiện.[145]

Vào 22/11, nhóm ra mắt single thứ 50- “11gatsu no Anklet”, là single tốt nghiệp của Watanabe Mayu[146]. 30 thành viên nhóm xuất hiện tại MAMA 2017 tổ chức tại Nhật Bản sau đó 1 tuần[147], biểu diễn 3 bài hát Pick Me, Heavy Rotation, Koisuru Fortune Cookie với Weki Meki, Kim Chung-ha, PRISTIN, các thí sinh Idol School, Fromis 9, AKB48 nhận giải Nghệ sỹ châu Á của năm tại Nhật Bản, còn Akimoto Yasushi nhận giải thành tựu truyền cảm hứng[148][149][150], đồng thời nhóm xác nhận sẽ tham gia chương trình thực tế sống còn Produce 48 của đài Mnet năm 2018, Akimoto Yasushi sẽ đóng vai trò là nhà sản xuất âm nhạc cho chương trình[151]

Tại buổi kỷ niệm 12 năm ra mắt, nhóm công bố việc sắp xếp đội hình. Tất cả các vị trí kiêm nhiệm (kennin) tại các nhóm thuộc 48 Groups được loại bỏ, nhưng tất cả các thành viên Team 8 đều nhận được vị trí này, nghĩa là tất cả các thành viên Team 8 giờ cũng thuộc Team A, Team K, Team B hoặc Team 4. Đội trưởng mới của Team là Okabe Rin (Team A), Komiyama Haruka (Team K), Takahashi Juri (Team B) và Murayama Yuiri (Team 4). Vai trò đồng đội trưởng cũng được loại bỏ.[152]

2018–2019: Tham gia Produce 48, Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake o Shitteiru[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt album thứ 9- Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake wo Shitteiru vào 24/1/2018[153] cùng single thứ 51- Jabaja vào 14/3, Okada Nana có lần đầu tiên làm center cho single[154]

Nhóm phát hành single thứ 52- Teacher Teacher vào 30/5, bán được 0969756783 bản trong ngày đầu, phá kỷ lục cũ của Bokutachi wa Tatakawanai, tẩu tán được 0969756783 bản vài tuần sau đó, là single bán chạy thứ 2 trong lịch sử (sau Sayonara Crawl với 0969756783 bản)[155][156]

Nhóm tổ chức Tổng tuyển cử lần thứ 10 vào 18/6, cùng dịp kỷ niệm 10 năm SKE48 ra mắt, Matsui Jurina đạt hạng nhất với 194.453 phiếu bầu, làm center cho single thứ 53-“Sentimental Train” phát hành ngày 19/9, nhưng rút lui vì vấn đề sức khỏe.[157][158]

Vào ngày 15/6, AKB48 cùng 5 nhóm chị em tại Nhật Bản đưa 39 thành viên tham gia chương trình thực tế sống còn Produce 48 để cạnh tranh với 57 thực tập sinh từ chủ nhà Hàn Quốc cho 12 vị trí của nhóm nhạc sẽ hoạt động tại Hàn Quốc và Nhật Bản trong 2,5 năm[159][160]. Vào 31/8, tập cuối cùng của show cùng tên nhóm- Iz*One và đội hình chính thức đã ra mắt, trong đó Honda Hitomi của AKB48 cùng Yabuki Nako với Miyawaki Sakura của HKT48 là 3 thành viên từ Nhật Bản của nhóm, do đó cả 3 sẽ tạm dừng mọi hoạt động cùng AKB48 để hoạt động cho Iz*One đến tháng 4/2021[161][162], single thứ 54- NO WAY MAN là lần cuối cả 3 xuất hiện cùng AKB48, họ là tâm điểm cho bài hát chủ đề cùng tên khi cùng xuất hiện, cùng bài hát B-side cho top 16 Produce 48 (không bao gồm Nako, Hitomi, Sakura)[163][164] Sau khi kết thúc Produce 48, Stone Music Entertainment cùng Genie Music ký kết hợp đồng với King Records & AKS để phân phối các single của AKB48 tại Hàn Quốc[165]. 6 thành viên Yokoyama Yui, Shimizu Maria, Oda Erina, Hama Sayuna, Shitao Miu và Gyoten Yurina từ Team 8 biểu diễn cùng SGO48 tại giải chạy Kizuna Ekiden 2018 ở Hà Nội ngày 18/11 [166][167]

Tại lễ kỳ niệm 13 năm ra mắt, Yokoyama Yui thông báo từ chức Tổng quản nhưng sẽ tiếp tục hoạt động cho nhóm, cô chọn Mukaichi Mion là người kế nhiệm, nhóm ra mắt phim tài liệu thứ 6- Legend of AKB48: New Chapter vào dịp Giáng sinh. Vào ngày 31/12, 16 thành viên nhóm biểu diễn bài hát “Koisuru Fortune Cookie” cùng BNK48 trong đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 69 bằng tiếng Nhật & tiếng Thái, Mobile (BNK48) cùng Sashihara Rino là 2 center biểu diễn bài hát.[b][168][169]

Nhóm tham dự sự kiện AKB48 Group Asia Festival in Bangkok tại Bangkok, Thái Lan đầu năm 2019, biểu diễn cùng chủ nhà BNK48 và các nhóm chị em JKT48, MNL48, AKB48 Team SH, AKB48 Team TP và SGO48[170][171], sau đó là AKB48 Group Asia Festival in Shanghai ở Thượng Hải, Trung Quốc vào tháng 8, biểu diễn cùng chủ nhà AKB48 Team SH với các nhóm chị em[172], cùng concert “AKB48 in Taipei ~Are You Ready?~” tại Đài Loan với AKB48 Team TP cùng Rina Izuta từ CGM48 vào tháng 9[173], và Tokyo Idol Festival 2019 tổ chức cùng tháng. AKB48 tổ chức AKB48 Zenkoku Tour 2019 từ tháng 7 đến tháng 12.[174] Nhóm có lần thứ 2 liên tiếp biểu diễn cùng SGO48 tại giải chạy Kizuna Ekiden 2019 ở Hà Nội ngày 16/11, lần này 6 thành viên Erina Oda, Yuna Hattori, Maria Shimizu, Haruna Hashimoto, Serika Nagano và Hinako Okuhara biểu diễn cùng Kaycee & Trúc Phạm [175][176]

2019 là năm chứng kiên nhiều biến động của nhóm: Sashihara Rino tuyên bố tốt nghiệp, làm center cho single thứ 55- Jiwaru DAYS phát hành ngày 13/3[177], bao gồm bài hát “Hitsuzensei” thuộc single là sự kết hợp giữa AKB48, Nogizaka46 và Iz*One[178]; đến tháng 4, Kojima Mako tuyên bố tốt nghiệp tại AKB48 Group Spring Festival in Yokohama Stadium; 2 chương trình nổi tiếng của nhóm- AKB48 SHOW! và AKBINGO! ngừng phát sóng lần lượt vào tháng 3 & tháng 9[179], cuộc tổng tuyển cử, Đại hội Janken và Kōhaku Uta Gassen không được tổ chức[180] đến cuối năm thành viên còn lại từ thế hệ đầu tiên Minegishi Minami tuyên bố tốt nghiệp [181]

Nhóm phát hành single thứ 56 Sustainable vào 18/9, là single đầu tiên của nhóm tại Thời kỳ Lệnh Hòa, cũng là single cuối của nhóm trong năm, đánh dấu năm nhóm ra ít single nhất từ khi ra mắt với 2 single[182].Tiệm cafe AKB48 & cửa hàng đặt cạnh nhà hát chính thức đóng cửa từ 29/12 sau 8 năm hoạt động[183][184] Tại đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 70 (第70 回NHK紅白歌合戦, The 70th NHK Red & White Song Battle) tổ chức ngày 31/12, 16 thành viên nhóm biểu diễn bài hát “Koisuru Fortune Cookie” cùng các nhóm chị em thuộc AKB48 Group[c][185]

2020: Những sự thay đổi, ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19, dự án OUC48 project[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2020 mở đầu bằng việc AKS quyết định để các công ty quản lý riêng lẻ điều hành độc lập các nhóm chị em của AKB48[186]

Vào 4/2, Yahagi Moeka tốt nghiệp rời AKB48, theo đó, sự kiện bắt tay ở Osaka vào đầu tháng 2 sẽ là hoạt động cuối cùng của nữ ca sĩ với tư cách là thành viên của nhóm.[187] Vào 18/3, nhóm phát hành single thứ 57- “Shitsuren, Arigatō”, bán được 0969756783 bản trong tuần đầu[188], Concert mùa xuân của nhóm bị hủy bỏ do đại dịch COVID-19, kéo theo màn tốt nghiệp của Minegshi Minami đã bị tạm dừng, các buổi biểu diễn tại nhà hát cũng bị hủy bỏ sau đó

Để phòng chống đại dịch COVID-19 tại Nhật Bản cùng yêu cầu giãn cách xã hội từ chính phủ, nhóm ra mắt dự án OUC48 project, ra đời từ cụm từ o-uchi (お家) (ở nhà theo tiếng Nhật). Dự án được hình thành nhằm tuyên truyền, động viên tinh thần mọi người ở nhà để bảo vệ sức khỏe. Trong thời gian dịch bệnh vẫn đang diễn biến phức tạp, các thành viên đã tự quay video biểu diễn tại nhà và sau đó gửi tới Tổng quản Mukaichi Mion để tổng hợp các video lại thành video hoàn chỉnh, mở đầu bằng việc 103 thành viên cùng nhau hát bài 365nichi no Kamihikouki, dự án đã nhận được ủng hộ lớn từ công chúng.[189] Sau đó vào ngày 27/5, 5 thành viên Omori Maho, Oguri Yui, Shitao Miu, Chiba Erii, Yamauchi Mizuki biểu diễn cùng các nhóm chị em thuộc AKB48 và các nghệ sỹ khác tại Châu Á tại sự kiện ONE LOVE ASIA[190]

Nhóm phát hành single từ thiện thứ 3 – Hanareteitemo vào 21/6. Bài hát ra đời để cổ vũ cho tất cả mọi người tham gia công tác ngăn chặn sự lây lan của virus corona chủng mới, với sự tham gia của 105 thành viên hiện tại của AKB48, 1 thành viên SKE48 và 8 thành viên đã tốt nghiệp bao gồm Maeda Atsuko, Oshima Yuko, Itano Tomomi, Shinoda Mariko, Kojima Haruna, Takahashi Minami, Sashihara Rino và Yamamoto Sayaka, tuy nhiên Watanabe Mayu tuyên bố giã từ sự nghiệp giải trí, nên cô không có mặt trong single. Số tiền thu được  sẽ được quyên góp để cứu trợ những thiệt hại từ virus corona.[191][192]

Nhóm vắng mặt tại đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 71 vào cuối năm do đại dịch, chấm dứt 11 năm liền xuất hiện tại sự kiện (0969756783).[193][194]

2021–nay: Ne mo Ha mo Rumor, AKB48 THE AUDISHOW[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2021, Single thứ 57- “Shitsuren, Arigatō” của nhóm đạt giải Best 5 Singles tại lễ trao giải Japan Gold Disc Awards lần thứ 35[195]

Vào ngày 21/3, nhóm thông báo sẽ tổ chức concert trực tuyến AKB48 Group Asia Festival 2021 ONLINE vào ngày 27/6 tại Tokyo Dome City Hall[196], sau đó nhóm công bố 16 thành viên Chiba Erii, Nishikawa Rei, Kato Rena (Team A), Muto Tomu (Team K), Kubo Satone, Omori Maho, Taniguchi Megu (Team B), Okada Nana, Murayama Yuiri, Yamauchi Mizuki (Team 4), Okabe Rin, Oguri Yui, Gyoten Yurina, Shitao Miu, Kuranoo Narumi, Honda Hitomi (Team 8) tham dự sự kiện [d][197][198][199].Nhóm tổ chức concert tốt nghiệp cho Minegshi Minami vào ngày 22/5[200]

Vào ngày 23/5, Team 8 tổ chức concert toàn quốc cuối cùng ~47 no Suteki na Machi e~ tại Kanagawa- đánh dấu sự trở lại của Honda Hitomi sau khi kết thúc hoạt động cho Iz*One[201], sau đó nhóm tổ chức concert AKB48 Tandoku Concert 2021 cùng ngày, trình diễn liên tục 48 bài hát, đồng thời nhóm công bố single thứ 58- “Ne mo Ha mo Rumor”, với chỉ 18 thành viên thuộc AKB48 và không có thành viên của nhóm chị em khác từ lần cuối là Single “Chance no Junban” vào năm 2010 và sẽ ra mắt vào ngày 29/9[202][203], cùng TV show hợp tác với nhóm Nogizaka46 Nogizaka ni Hikosaremashita ~Gakeppuchi AKB48 no Dai Gyakushu~ sẽ lên sóng vào tháng 7[204], với bộ phim kinh dị Mijyoubutsu Hyakumonogatari ra mắt mùa hè[205], ngoài ra nhóm tổ chức AKB48 THE AUDISHOW từ 10-13/6 tại Tokyo Dome City Hall[206]. Nhóm tham gia TV Tokyo Ongakusai 2021, biểu diễn trên khoang hành khách máy bay A380 của hãng hàng không All Nippon Airways tại Sân bay quốc tế Narita ngày 30/6,[207][e] và NTV THE MUSIC DAY Ongaku wa Tomaramai 2021, biểu diễn cùng Morning Musume ngày 3/7[208][f].

Vào ngày 31/7, nhóm thông báo phải hủy hết lịch trình hoạt động vào các ngày đầu tháng 8 vì có 7 thành viên Omori Maho, Kuranoo Narumi, Sakaguchi Nagisa, Nagano Serika, Suzuki Yuka, Uemi Sorano và Tokunaga Remi cùng mắc Covid-19. Công ty quản lý đã gửi lời xin lỗi khán giả vì để bệnh dịch lây lan nhanh chóng trong nội bộ nhóm “Các thành viên có nguy cơ lây nhiễm cao vì tiếp xúc với ca dương tính đã tự cách ly và quản lý sức khỏe tại nhà riêng hoặc trong ký túc xá của nhóm”.[209][210][211] Trước đó Gyoten Yurina có kết quả tương tự[212], cùng nhiều thành viên khác[213][214][215][216][217][218], nhưng sau đó 1 số thành viên trở lại hoạt động[219][220][221]. Nhóm thông báo sẽ ra mắt game AKB48 WORLD vào tháng 9[222], cùng TV show mới AKB48! Mousou Manga Bu vào giữa tháng 8[223]

Phong cách âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách đặc trưng của nhóm được cho là “pop bubblegum và vũ đạo đồng đều”, thu hút các cô gái trước tuổi dậy thì cũng như người lớn tuổi ủng hộ các sản phẩm kèm theo của nhóm. Yamaguchi Mari từ Associated Press viết rằng “các buổi biểu diễn dường như có thể được dàn dựng. Khi các cô gái cùng nhau hát và nhảy, người hâm mộ sẽ cùng cổ vũ theo một công thức ” và ví phản ứng của họ như khán giả xem Kabuki. 2 nhà báo Andrew Joyce và Kenneth Maxwell từ The Wall Street Journal cho biết phong cách âm nhạc của nhóm là “những giai điệu pop ngọt ngào và những ca từ đôi khi gợi cảm”. Trong các buổi biểu diễn của nhóm, “các thành viên biểu diễn một vòng các tiết mục được biên đạo đơn giản trước khoảng 95% khán giả là nam, cùng đặc trưng âm nhạc của nhạc pop Nhật Bản: nhịp độ nhanh với những đoạn điệp khúc cao vút.”[224]

Tầm ảnh hưởng[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 biểu diễn Iiwake Maybe tại J!-ENT LIVE

Minewaki Ikuo – CEO của Tower Records Japan cho biết AKB48 là điều rất phổ biến[225] và được coi là hiện tượng xã hội[226]. Vào năm 2012, nhóm đạt doanh thu kỷ lục hơn 226 triệu USD tại Nhật Bản, đến 2013 tổng doanh thu đạt hơn 128 triệu USD và hơn 96 triệu USD vào 2015[227]. Theo Oricon, tính đến ngày 6 tháng 1 năm 2012, AKB48 đã bán được tổng cộng 0969756783 đĩa đơn, lập kỷ lục về “số đĩa đơn bán được của một nhóm nữ nhiều nhất tại Nhật Bản”[228]. Tính đến tháng 6/2018, nhóm bán được hơn 60 triệu đĩa, bao gồm hơn 6 triệu album. AKB48 là nhóm có doanh thu cao nhất ở Nhật về số lượng đĩa đơn bán ra. Tuy nhiên, single thứ 42 “Kuchibiru ni Be My Baby” đã không bán được hơn 1 triệu bản trong tuần đầu tiên sau khi phát hành, kết thúc chuỗi phát hành đĩa đơn đạt được thành tích này, bắt đầu với “Everyday, Katyusha”[229]

Bên cạnh doanh số bán CD, AKB48 cũng đạt được thành công về mặt thương mại trong các lĩnh vực khác. Nhóm có 6 đĩa đơn được RIAJ chứng nhận đạt 1 triệu lượt tải xuống mỗi đĩa[230]. Theo Joysound, AKB48 được vinh danh là nghệ sĩ karaoke của năm trong 4 năm liên tiếp (2011–2014)[231]. Vào năm 2011, 8 vị trí trong top 10 doanh thu sách ảnh hàng năm do các thành viên nhóm chiếm giữ[232]. Năm 2012, 6 thành viên đứng đầu bảng xếp hạng cá nhân của các chiến dịch quảng cáo[233]. AKB48 cũng là một trong những nghệ sĩ Nhật Bản được xem nhiều nhất trên YouTube.

AKB48 nắm giữ một số kỷ lục Guinness thế giới, bao gồm kỷ lục nhóm nhạc nữ lớn nhất thế giới với số lượng thành viên là 48 người vào năm 2010[234]. AKB48 đã lập kỷ lục về “nhóm nhạc xuất hiện nhiều nhất trong các clip quảng cáo truyền hình khác nhau trong 1 ngày” vào năm 2012, sau khi 90 thành viên trong nhóm xuất hiện trong 90 quảng cáo khác nhau được phát sóng ở các vùng Kanto, Kansai và Tokai của Nhật Bản[235]. Đại sứ Nhật Bản tại Hoa Kỳ Fujisaki Ichiro khi gặp nhóm trong chuyến thăm Washington, D.C. cùng năm cho hay “AKB” nghĩa là “đáng yêu, tốt bụng và xinh đẹp” (Adorable, Kind and Beautiful)[236]

Vào ngày 1 tháng 2 năm 2012, Japan Post phát hành bộ tem bưu chính để vinh danh nhóm.[237]

Tranh cãi[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong những bài hát của nhóm gây nhiều tranh cãi là Heavy Rotation. Trong đó, họ mặc đủ loại bikini và váy ngủ gợi cảm, cùng nhau ôm, hôn và tắm chung. Theo báo chí Trung Quốc, tuy được các fan ủng hộ nhưng nhóm bị CNN của Mỹ phê phán vì lối ăn mặc khiêu khích.[238] Ninagawa Mika – đạo diễn bài hát cho biết cô muốn thu hút nam giới và phụ nữ bằng video vui nhộn, sáng tạo vì nhóm ngày càng nổi tiếng. Trong một bài phỏng vấn, cô tiết lộ: “Akimoto giao phó mọi thứ cho tôi mà không đưa ra lời khuyên nào cả… Tôi đã cố gắng thể hiện AKB48 ngoài đời thực trong video. Trong phòng thay đồ, họ dường như rất thân thiết. Sau đó, tôi nghĩ ra ý tưởng về nữ sinh trung học cho bài hát.”[239]. Hay hình ảnh AKB48 quay quảng cáo cho Puccho Candy, trong đó các thành viên mặc đồng phục học sinh đút kẹo cho nhau bằng miệng, tạo liên tưởng tới những nụ hôn đồng giới. Nhiều người xem đã giận dữ tuyên bố cách đó không hợp vệ sinh, cổ súy quan hệ đồng giới và nêu gương xấu cho trẻ em.[240]

Trong tháng 1/2013, Kasai Tomomi để ngực trần được che chắn bằng đôi bàn tay của bé trai từ phía sau. Bức ảnh lập tức vấp phải làn sóng chỉ trích mạnh mẽ của người dân nước này. Thậm chí, cô còn dự định dùng hình ảnh này để làm ảnh bìa album cá nhân sắp ra mắt. Không những bị công chúng “ném đá”, bức ảnh còn bị cho là đã vi phạm đạo luật về bảo vệ trẻ em. Shukan Young Magazine, tuần san về truyện tranh được xuất bản bởi Kodansha, đã phải trì hoãn việc phát hành ấn phẩm mới nhất (dự tính ra mắt ngày 4/2) do bức ảnh trong ấn phẩm khi tung ra quảng bá làm người dân sốc nặng. Bản thân Kasai Tomomi cũng bị tẩy chay.[241]

Dù cho có quy định các thành viên không được phép hẹn hò và phải giữ được sự thanh khiết, không ảnh hưởng đến hình ảnh đẹp trong lòng người hâm mộ, nhiều cô gái trong hệ thống nhóm nhạc của AKB48 đã vướng phải những vụ ồn ào tình ái và bị công chúng chỉ trích dữ dội[242][243]:

  • Năm 2011, Bunshun Online đưa tin Watanabe Miyuki mời một số khán giả nam đến phòng khách sạn để dự tiệc hẹn hò. Sau sự việc, Watanabe Miyuki bị loại khỏi đội hình trong đợt quảng bá đĩa đơn thứ 2 của NMB48 là Oh my god!.[244]
  • Vào tháng 2/2013, Minegishi Minami đã xin lỗi người hâm mộ khi tờ báo lá cải Shukan Bunshun đăng ảnh cô che mặt, đội nón, rời khỏi nhà bạn trai Shirahama Alan sau khi qua đêm tại đây.[245] Shirahama khi đó 19 tuổi, là vũ công của nhóm nhạc nam nổi tiếng Exile. Trong clip, cô lộ rõ vẻ mệt mỏi, căng thẳng. Điều khiến người hâm mộ bất ngờ nhất là Minegishi đã cắt cụt mái tóc của mình, cô cho biết đã quyết định cạo mái tóc dài của mình để thể hiện sự ăn năn trước hành động “thiếu suy nghĩ và chưa trưởng thành”. Cô xin lỗi công ty quản lý, thành viên trong nhóm, gia đình và người hâm mộ vì khiến họ lo lắng. “Tâm trí tôi trống rỗng, tôi không biết phải làm gì lúc này. Từ lúc đọc xong bài báo, tôi đứng ngồi không yên. Tôi cạo trọc đầu mà không nói trước với người quản lý hay các bạn trong nhóm”, “Tôi không nghĩ rằng cạo đầu và thực hiện clip xin lỗi để được dung thứ cho những gì tôi đã làm. Chỉ vì điều đầu tiên tôi nghĩ trong đầu mình lúc này là không muốn rời bỏ AKB48”. Cô mong muốn được tiếp tục làm việc trong nhóm. Ngay sau khi xảy ra sự việc, cô bị đẩy sang làm thực tập sinh của nhóm. Trong văn hóa Nhật Bản hành động này được xem là sự trừng phạt cho những hành động gây thất vọng.[246]
  • Vào tháng 5/2021, Suzuki Yuka đã xin lỗi người hâm mộ vì sống chung với nhà sản xuất gần 50 tuổi. Cô tuyên bố tạm dừng hoạt động và sẽ kiểm điểm về hành động của bản thân. Đáng nói, chỉ vài ngày trước đó, Bunshun Online chụp được cảnh Suzuki Yuka qua đêm tại khách sạn với một người đàn ông trẻ khác. “Tôi rất xin lỗi vì đã gây rắc rối và lo lắng cho người hâm mộ, các thành viên cũng như những người có liên quan. Tôi xin lỗi từ tận đáy lòng vì hành vi bất cẩn của bản thân. Tôi vô cùng hối hận vì làm những điều không đúng dẫn đến sự xuất hiện của bài báo mà mọi người đã thấy”, Suzuki Yuka chia sẻ[247]. Trước đó 1 tháng, Bunshun Online đưa tin cô sống thử với người đàn ông ngoài 40 tuổi, người này đã ở nhà của nữ thần tượng gần một tuần kể từ 1/4 và nắm giữ chìa khóa của căn nhà. Nữ ca sĩ cho biết cô sẽ kiểm điểm và suy nghĩ về hành động của bản thân trong thời gian tạm dừng hoạt động. Suzuki Yuka sẽ không tham gia concert của AKB48 Team 8 tại tỉnh Ibaraki vào ngày 4/5 và tỉnh Kanagawa vào ngày 23/5.[248][249]

Vào tháng 5/2014, trong sự kiện giao lưu với người hâm mộ ở thành phố Takizawa- tỉnh Iwate, 2 thành viên Kawaei Rina và Iriyama Anna cùng một nhân viên nam khác đã phải nhập viện khẩn cấp sau khi bị Satoru Umeta- một người đàn ông 24 tuổi cũng là một fan cuồng cầm cưa tấn công. Ngay sau đó, hung thủ đã bị cảnh sát bắt giữ để phục vụ điều tra. Rina bị thương nặng ở đầu, gãy ngón cái tay phải còn Anna bị đa chấn thương[250]. Quản lý nhóm cho biết Rina và Anna đã được phẫu thuật thành công và có thể xuất viện vào 26/5, đồng thời cho biết không ai bị đe dọa đến tính mạng trong tai nạn này. Dù vậy, show diễn ở Tokyo cũng như các buổi giao lưu với người hâm mộ đều bị hủy bỏ.[251]

Một bộ phim tài liệu phát sóng trên NHK năm 2016 gây ra các cuộc tranh luận khi cho biết sự phổ biến của các sự kiện bắt tay có thể góp phần làm suy giảm các mối quan hệ trong giới trẻ Nhật Bản, bao gồm các “chàng trai ăn cỏ”[g]. Theo đó, một số người hâm mộ thà dành thời gian ủng hộ thần tượng yêu thích hơn là tích cực theo đuổi tình yêu.[252]

Nhóm nhận nhiều chỉ trích sau vụ việc Yamaguchi Maho bị 2 người đàn ông tấn công và theo đuôi đến tận nhà riêng vào 8/12/2018, tuy nhiên phải đứng ra xin lỗi trước công chúng sau đó, cô cho biết đã trao đổi với quản lý và sẽ tiếp tục hoạt động cho NGT48. Cô cũng thể hiện mong muốn công chúng tiếp tục ủng hộ nhóm. Không chỉ riêng người hâm mộ, tất cả mọi người đều cảm thấy không công bằng cho nạn nhân. Sashihara Rino tuyên bố Yamaguchi không nên là người phải xin lỗi. Truyền thông quốc tế cũng bắt đầu đưa tin về vụ việc và bắt đầu xuất hiện hashtag Justice for Maho (Đòi công bằng cho Maho), đồng thời lên án quản lý NGT48 đã không xử lý theo cách mà họ phải làm. Quá bất ngờ trước phản ứng dữ dội từ dư luận, AKS phải lên tiếng xin lỗi và sa thải quản lý nhóm NGT48 Etsuro Imamura.[253][254]

Hoạt động từ thiện[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 1 tháng 4 năm 2011, nhóm phát hành đĩa đơn từ thiện số “Dareka no Tame ni”, số tiền thu được dùng cho quyên góp cho cứu trợ động đất và sóng thần[255]. Đĩa đơn thứ 23 “Kaze wa Fuiteiru”, được dành tặng cho các nạn nhân thảm họa[256]. Vào tháng 2 năm 2012, AKB48 đã công bố khoản quyên góp 580 triệu yên khác cho Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản, và có thông tin cho đến nay nhóm đã quyên góp được tổng cộng hơn 1,25 tỷ yên để cứu trợ động đất và sóng thần.[257]

Vào ngày 8 tháng 3 năm 2013, nhóm phát hành “Tenohira ga Kataru Koto”, một bài hát khác dành riêng cho các nạn nhân thảm họa trên trang web nhóm dưới dạng tải miễn phí.[258] Vào dịp kỷ niệm 2 năm diễn ra thảm họa, AKB48 và các nhóm chị em đến thăm các khu vực bị ảnh hưởng, biểu diễn tại các trường học và các nhà hát AKB48, SKE48, NMB48 và HKT48 với số tiền thu được để hỗ trợ quá trình tái thiết.[259]

Quảng bá & truyền thông[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 cùng các nhóm chị em tăng doanh thu kỷ lục bằng nhiều chiến lược marketing. Các bài hát chính của single được thực hiện bởi nhóm Senbatsu (選抜)- là tập hợp các thành viên ưu tú được tuyển chọn dựa trên nỗ lực, tài năng và độ nổi tiếng của thành viên đó; những thành viên vào Senbatsu sẽ được góp mặt trong các single của AKB48, tham gia các chiến dịch quảng bá hay xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Điều này tạo sự cạnh tranh giữa các thành viên và nhóm fan. Các single và album được phát hành với nhiều phiên bản với hình ảnh bìa album khác nhau, các bài hát B-side, video DVD, thẻ hình ảnh thành viên và mã bỏ phiếu cho một số cuộc bầu cử hàng năm. Khi mua single/album, fan hâm mộ sẽ được nhận vé tham dự các buổi họp mặt bao gồm sự kiện bắt tay hoặc các buổi chụp ảnh, nơi có thể chọn các thành viên mà họ muốn gặp, Tất cả những chiến lược này thúc đẩy fan hâm mộ mua nhiều số lượng hơn các single/album. Alan Swarts của MTV Nhật Bản cho hay 1 số fan mua nhiều bản CD đã làm thổi phồng thị trường, và là một trong những lý do khiến ngành công nghiệp âm nhạc Nhật Bản phát triển vượt bậc.[260]

Sự kiện[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm tổ chức các sự kiện đặc biệt để chọn đội hình quảng bá và thu âm cho một số single. Từ 2009, việc lựa chọn thành viên được chuyển sang hình thức mới dựa vào sự bầu chọn của fan và Senbatsu Sousenkyo (選抜総選挙) -Tổng tuyển cử ra đời, đây là sự kiện thường niên của AKB48 và các nhóm chị em trong nước. Do quá đông thành viên, người hâm mộ sẽ được chọn ai sẽ góp mặt cũng như là center (thành viên trung tâm) cho bài hát tiếp theo bằng cách bỏ phiếu cho họ khi mua single trước đó, mua càng nhiều single sẽ có càng nhiều phiếu để bầu cho người mình thích, đồng thời các thành viên muốn tham gia sẽ đăng ký và tiến hành các hoạt động kêu gọi bình chọn. Sousenkyo có 80 hạng, những ai có hạng #80 – #65 được gọi là Upcoming Girls, #64- #49 là Future Girls, #48- #33 là Next Girls, #32- #17 là Undergirls và #16- #1 là Senbatsu. Những thành viên trong senbatsu sẽ được thể hiện bài hát, góp mặt trong bìa single và MV và được quảng bá rộng rãi, người chiến thắng sẽ trở thành Center cho bài đó. Từ Undergirls trở xuống vẫn được quay MV, thu âm, tuy nhiên không được quảng bá rộng.[261] Tổng số phiếu bầu được kiểm đã vượt quá 3 triệu phiếu bầu cho các sự kiện từ 2015[262]

AKB48 tổ chức cuộc tổng tuyển cử thứ 7 tại Fukuoka Yafuoku! Dome năm 2015

AKB48 có hoạt động khác để chọn center là Single Senbatsu Janken Taikai, gọi ngắn gọn là Janken Taikai, hay Đại hội Janken/Đại hội oẳn-tù-tì được tổ chức lần đầu vào 2010. Đại hội được tổ chức cho cả các nhóm chị em quốc tế của AKB48 và Kenkyuusei, một yếu tố rất quan trọng có thể giúp bạn thành công đó là may mắn. Vì lẽ đó “Đại hội Oẳn tù tì” ra đời mang đến cơ hội cho mọi người. Các thành viên sẽ mặc bất cứ trang phục họ muốn và tham gia vào trò chơi cặp theo từng bảng và từng vòng cho đến khi tìm ra người chiến thắng. Đại hội ngoài ra còn là một lễ hội cosplay, khi các thành viên tham gia mặc đồ theo ý thích của mình, trong đấy có rất nhiều bộ trang phục độc đáo. Tuy nhiên, Đại hội không chỉ tuyển chọn center cho single mà tùy từng năm, người chiến thắng sẽ có những đãi ngộ khác nhau. Cụ thể, tại đại hội năm 2014 và 2015, người chiến thằng được ra mắt với tư cách ca sỹ solo. Đồng thời, các thành viên từ hạng 2 đến 16 sẽ tham gia vào bài hát đính kèm và xuất hiện trong PV bài hát. Mặt khác, tại năm 2016, người chiến thắng sẽ là center của nhóm nhỏ mới thành lập với các thành viên chiến thắng trong top 7, các thành viên xếp hạng từ #8 đến #14 sẽ xuất hiện trong bài hát đính kèm và PV.[263]

Nhóm cũng tổ chức concert Request Hour Setlist Best 100, nơi mà fan là người chọn bài hát cho concert. Nếu như concert bình thường sẽ do nhân sự chọn bài hát biểu diễn, thì tại Request Hour fan sẽ bầu chọn cho bài hát họ yêu thích, những bài hát trong top sẽ được biểu diễn tại đây. Các sự kiện khác nhóm tổ chức là AKB48 Kouhaku Taikou Uta Gassen (AKB48 紅白対抗歌合戦) là chương trình dựa theo Kōhaku Uta Gassen của đài NHK tổ chức tại Tokyo Dome City Hall, các thành viên được chia thành 2 đội Đỏ (akagumi -赤組, 紅組) và đội Trắng (shirogumi -白組) để thi đấu với nhau bằng cách luân phiên biểu diễn các bài hát của AKB48, vào cuối chương trình, ban giám khảo và khán giả sẽ bình chọn đội thắng cuộc. Tại đây, các thành viên thường biểu diễn những bài hát bình thường mình không được diễn, và có cả những phiên bản mới của những bài hát quen thuộc, cùng AKB group Draft Kaigi (AKB48グループ ドラフト会議, AKB48 gurūpu dorafuto kaigi)- sự kiện cho những kenkyuusei tiềm năng thực tập và tự quảng bá bản thân để các team chọn qua từng vòng.[264][265]

Vào năm 2019, cuộc tổng tuyển cử, Đại hội Janken và Kōhaku Uta Gassen không được tổ chức do đại dịch COVID-19

Truyền hình, phim ảnh & tạp chí[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 có các chương trình riêng như AKBingo!, AKB48 Show!, AKB to XX, Nemōsu TV… cùng các series phim Majisuka Gakuen, Sakura kara no Tegami… Ngoài ra, các thành viên cũng góp mặt trong các chương trình tạp kỹ như Mecha-Mecha Iketeru!, Waratte Iitomo!, SMAPxSMAP… Nhóm là khách mời quen thuộc của đại nhạc hội NHK Kōhaku Uta Gassen tổ chức ngày 31/12 hàng năm với lần đầu ra mắt tại lần thứ 0969756783), sau đó là chuỗi 11 năm liền xuất hiện tại sự kiện (0969756783). Nhóm cũng tham gia làm người mẫu cho các tạp chí nổi tiếng[266][267].

Nhóm ra mắt 6 phim tài liệu từ 2011, phim đầu tiên DOCUMENTARY of AKB48 to be continued “10 Nengo, Shoujo Tachi wa Ima no Jibun ni Nani o Omou Nodarou?” ra mắt năm 2011[268], phát hành dưới dạng DVD tại Bắc Mỹ tháng 12 cùng năm[269], phim thứ 2 DOCUMENTARY of AKB48 Show must go on Shoujo-tachi wa Kizutsuki Nagara, Yume wo Miru ra mắt năm 2012[270], đạt doanh thu 0969756783 USD tại Nhật Bản, phim thứ 3 DOCUMENTARY of AKB48 No flower without rain Shoujo Tachi wa Namida no Ato ni Nani wo Miru? ra mắt năm 2013, đạt doanh thu 0969756783 USD [271], phim thứ 4 DOCUMENTARY of AKB48 The Time Has Come phát hành năm 2014[272], đạt doanh thu 984.757 USD tính đến tháng 7 cùng năm, phim thứ 5 DOCUMENTARY of AKB48 Sonzai suru Riyuu ra mắt năm 2016[273], Legend of AKB48: New Chapter là phim thứ 6 phát hành năm 2018. Mỗi bộ phim ghi lại các sự kiện nhóm trải qua.

[external_link offset=2]

Từ 2016, nhóm hợp tác với trang web và ứng dụng di động Showroom để phát sóng các nội dung trực tuyến do các thành viên thực hiện.[274]

Manga & anime[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm ra mắt bộ manga AKB49: Ren’ai Kinshi Jōrei kể về AKB48 với các thành viên trong nhóm làm nhân vật phụ, cùng với bộ trinh thám AKB48 Satsujin Jiken[275]. Bộ anime AKB0048 là loạt phim khoa học viễn tưởng, với sự giám sát sản xuất của Akimoto Yasushi, 9 nhân vật trong anime được lồng tiếng bởi các thành viên AKB48 và các nhóm chị em. Phần 1 phát sóng vào mùa xuân 2012, phần 2 phát sóng sau đó 1 năm.[276][277]

Game[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm xuất hiện trong các game mô phỏng hẹn hò như AKB1/48: Idol to Koishitara… (2010), AKB1/48: Idol to Guam de Koishitara… (2011, lấy bối cảnh tại Guam), AKB1/149 Ren’ai Sōsenkyo (2012) có sự góp mặt của SKE48, HKT48 và NMB48, cả 3 game đều phát hành cho PlayStation Portable, PS Vita và PS3. Năm 2013, Bandai Namco ra mắt game Sailor Zombie AKB48 Arcade Edition dựa theo phim cùng tên. AKB48 Official Music Game ra mắt 2014 là game âm nhạc đầu tiên của nhóm phát hành trên IOS & Android[278]. Năm 2012, AKB48 + Me phát hành cho Nintendo 3DS, cho phép người chơi trở thành thành viên của AKB48… cùng nhiều trò chơi khác

Quảng cáo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cokyo Koukoku Kikyo (公共広告機構) / Mittsu no R de Chikyu wo Sukue! REDUCE RESUME RECYCLE (3つのRで地球を救え! REDUCE REUSE RECYCLE)
  • Recrute (リクルート) / Hana Saku・Project (ハナサク・プロジェクト)
  • Tokyo City「TOKYO exercises」
  • Yomiuri Newspaper 『読売新聞×AKB48』[279]
  • Recochoku 「レコチョクの部屋 AKB編」
  • AOKI『AOKI×AKB48』
  • AKB48 × Nadeshiko Japan
  • AKB48 x nano・universe
  • AKB48 x Credit Saison[280]
  • AKB48 × Yahoo!
  • AKB48 × McDonald’s Japan[281]
  • AKB48 × 兵衛向陽閣 (Hyoe Koyokaku)[282]
  • AKB48 × Hewlett-Packard
  • AKB48 × Kaspersky
  • Japanese Red Cross Society x AKB48[283]
  • AKB48 × Adidas[284]
  • Vanilla Air x AKB48 Team 8[285]
  • IxR x TapiocaDrink[286]
  • AKBBeauty For MEN[287]

Chương trình radio[sửa | sửa mã nguồn]

  • [bayfm] ON8
  • [CBC Radio] AKB48 Konya wa Kaeranai… (AKB48 今夜は帰らない…)
  • [Star Radio] AKB48 no Zenryoku de Kikanakya Dame Jyan!! (AKB48の全力で聴かなきゃダメじゃん!!)
  • [Bunka Hoso] AKB48 Asu Made Mou Chotto. (AKB48 明日までもうちょっと。)
  • [Bunka Hoso] Sakurazuka Yakkun no Sukeban Rengo Kinkyu Shukai (桜塚やっくんのスケバン連合緊急集会)
  • [TOKYO FM] COUNTDOWN JAPAN
  • [TOKYO FM] AKB48 no Yonpachi After (AKB48のよんぱちアフター)
  • AKB48 no All Night Nippon

Dự án từ thiện[sửa | sửa mã nguồn]

  • Dareka no Tame ni (2011)
  • Hanaereteitemo (2020)

Nhạc kịch[sửa | sửa mã nguồn]

  • DUMP SHOW!
  • AKB48 Kagekidan “∞・Infinity”
  • AKB49 ~Renai Kinshi Jourei~ The Musical
  • Majimuri Gakuen Loudness (舞台「マジムリ学園-LOUDNESS-」[288]

Nhà hát[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm có nhà hát riêng ở Akihabara- Tokyo, đặt trên tầng 8 tòa nhà Don Quijote, nơi họ biểu diễn trong tuần và có nhiều suất diễn vào thứ 7 và chủ nhật, được mở ngày 8/12/2005- cũng là ngày ra mắt nhóm, Team A công diễn stage đầu tiên của mình- stage đầu tiên trong lịch sử nhà 48 “PARTY ga Hajimaruyo”. Các thế hệ sau này đều lấy sân khấu nhà hát làm trọng tâm, và đa số sau mỗi đợt tuyển chọn thế hệ thì các thành viên mới thường ra mắt người hâm mộ lần đầu tại nhà hát- có thể chỉ là những lời giới thiệu bản thân, trình diễn một bài hát đã được tập luyện, hoặc nhảy nền cho một số unit trong Stage đó. Theo thông lệ, thành viên sẽ tháo bỏ bức ảnh chân dung ở hội trường nhà hát khi chính thức tốt nghiệp. Nhà hát có 145 ghế ngồi, còn lại là chỗ đứng; tổng cộng sẽ có 250 khán giả mỗi show; mặc dù AKB48 biểu diễn tại nhà hát hàng ngày, nhưng vé chỉ được phân phối thông qua hình thức xổ số do nhu cầu cao. Tiệm cafe mở năm 2011 đặt cạnh nhà hát là nơi fan dùng đồ ăn uống và món tráng miệng theo thực đơn. Ngoài ra còn có cửa hàng lưu niệm, đồng thời ở đây cũng tổ chức nhiều sự kiện gặp gỡ các Idol của nhóm. Hàng năm nhóm sẽ tổ chức lễ kỷ niệm ra mắt tại đây từ 2010[289]

Các buổi diễn tại nhà hát (Stage)[sửa | sửa mã nguồn]

Toàn cảnh nhà hát cùng vé xem show diễn nhóm AKB48

Himawarigumi
Tên Thời gian
1st Stage 「僕の太陽」 (AKB48 Himawarigumi 1st Stage “Boku no Taiyou”)  1/7-30/11/2007

16/7/2016-28/6/2017

2nd Stage 「夢を死なせるわけにいかない」 (AKB48 Himawarigumi 2nd Stage “Yume wo Shinaseru Wake ni Ikanai”) 8/12/2007-19/4/2008

tháng 6/2009

Thực tập sinh
Tên Thời gian
1st Stage] 「ただいま恋愛中」 (AKB48 Kenkyuusei “Tadaima Renaichuu”)  22/5-7/10/2008
2nd Stage 「アイドルの夜明け」 (AKB48 Kenkyuusei “Idol no Yoake”) 6/3/2009-14/2/2010
3rd Stage 「恋愛禁止条例」 (AKB48 Kenkyuusei “Renai Kinshi Jourei”) 14/7-16/8/2010
4th Stage 「シアターの女神」 (AKB48 Kenkyuusei “Theater no Megami”) 20/6/2010-3/4/2011
5th Stage 「RESET」 (AKB48 Kenkyuusei “RESET”) 29/3-8/9/2012
6th Stage 「僕の太陽」 (AKB48 Kenkyuusei “Boku no Taiyou”)  26/10/2012-17/3/2013
7th Stage 「パジャマドライブ」 (AKB48 Kenkyuusei “Pajama Drive”) 20/3-17/10/2013

18/11/2018-nay

16th Generation Kenkyuusei (16期研究生) 11/2-22/7/2017
Let’s Go Kenkyuusei! (レッツゴー研究生!公演) 28/7/2017-7/7/2018
Stage Đặc biệt
Tên Thời gian
1st Stage 「イブはアダムの肋骨」 (AKB48 Special Stage “Eve wa Adam no Abarabone”) 13/9/2015-7/3/2017
2nd Stage 「青春はまだ終わらない」 (AKB48 Special Stage “Seishun wa mada owaranai”) 18/9/2015-17/3/2017
3rd Stage 「どうなる?!どうする?!AKB48」 (AKB48 Special Stage “Dounaru?! Dousuru?! AKB48”)  16/10/2015-5/3/2017
4th Stage 「僕がここにいる理由」 (AKB48 Special Stage “Boku ga Koko ni Iru Riyuu”)  8/11/2015-27/12/2016
Koukando Bakuage (好感度爆上げ) 21/11/2016-13/4/2017
Minerva yo, Kaze wo Okose (ミネルヴァよ、風を起こせ) 28/2/2017-20/12/2018
Thumbnail (サムネイル) 12/5/2017-nay
Kamikyoku Shibari (神曲縛り) 20/7/2017-25/12/2018
Sekai wa Yume ni Michite Iru (世界は夢に満ちている) 16/8/2017-18/12/2018
Yabai yo! Tsuite koren no ka?! (ヤバイよ!ついて来れんのか?!) 17/4/2017-nay
Idol Shuugyouchuu♡ (アイドル修業中♡) 28/2-17/11/2018
Boku no Natsu ga Hajimaru (僕の夏が始まる) 30/6/2019-nay
Buổi diễn giãn cách xã hội
Năm Thời gian Tên
2020 13/6

19/7

NaaOn Social Distance Stage

(なぁおん ソーシャルディスタンス公演)

14/6 YuiZuki Social Distance Stage

(ゆいずき ソーシャルディスタンス公演)

20/6 YuiMyao Social Distance Stage

(ゆいみゃお ソーシャルディスタンス公演)

21/6

31/8

MiiYuki Social Distance Stage

(みぃゆき ソーシャルディスタンス公演)

27/6

11/8

30/11

27/12

KitaYamaSakiRingo Social Distance Stage

(北山さきりんご ソーシャルディスタンス公演)

4/7 SatoReiMaho Social Distance Stage

(さとれいまほ ソーシャルディスタンス公演)

5/7

23/8

Manaamin Social Distance Stage

(まなーみん ソーシャルディスタンス公演)

11/7

20/8

KuranoOdaEriNarumi Social Distance Stage

(くらのおだえりなるみ ソーシャルディスタンス公演)

25/7

13/8

IxR ni Aeru ☆

(IxRに会える☆)

9,10,15,16/8 Boku no Natsu ga Hajimaru

(僕の夏が始まる 公演

26/8

12, 24/10

K Shousuru Monotachi

(K承する者たち)

12/9 NagiMiu Social Distance Stage

(なぎみう ソーシャルディスタンス公演)

26/9

11/10

RenaKuru Social Distance Stage

(れなくる ソーシャルディスタンス公演)

5/10

15/12

TomuSaho Social Distance Stage

(とむさほ ソーシャルディスタンス公演)

Các sự kiện tại nhà hát[sửa | sửa mã nguồn]

Thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm nhỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhóm nhỏ cho đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Senbatsu (選抜)
  • Undergirls(アンダーガールズ)
  • Next Girls (ネクストガールズ)
  • Future Girls (フューチャーガールズ)
  • Upcoming Girls (アップカミングガールズ)
  • Waiting Girls (ウェイティングガールズ)
  • Theater Girls (シアターガールズ)
  • Team PB (チーム PB): hợp tác giữa AKB48, Shueisha và Playboy
  • Team YJ (チーム YJ): hợp tác giữa AKB48, Shueisha và Young Jump
  • Yasai Sisters (野菜 シスターズ): hợp tác giữa AKB48 và Công ty Kagome
  • MINT: sub-unit được lập khi phát hành đĩa đơn thứ 18.
  • Selection 6/10/12/16 (セレクション 6/10/12/16)
  • Special Girls (スペシャルガールズ)
  • Google+ Senbatsu
  • Stage Fighter Senbatsu
  • Vocal Team (ボーカルチーム)
  • AKB48 Group U-17 Senbatsu (AKB48 U-17選抜)
  • Vocal Senbatsu (ボーカル選抜)
  • Waiting Circle (ウェイティングサークル)
  • Tofu Pro Wrestling (豆腐プロレス楽曲)
  • Renacchis (レナッチーズ)
  • Dance Senbatsu (ダンス選抜)
  • Team 8 EAST (チーム8 EAST)
  • Team 8 WEST (チーム8 WEST)
  • AKB48 U-17 Senbatsu (AKB48 U-17選抜)
  • OKL48
  • BKA48
  • Tentoumu Chu! (てんとうむChu!)
  • Smiling Lions
  • Beauty Giraffes
  • 7byou-go, Kimi ga Suki ni naru. (7秒後、君が好きになる。)
  • AKB48 U-19 Senbatsu (AKB48 U-19選抜)
  • Baby Elephants
  • Talking Chimpanzees
  • Baragumi (ばら組)
  • Yurigumi (ゆり組)
  • Katareagumi (カトレア組)
  • MayuYukirin (まゆゆきりん)
  • SHOWROOM Senbatsu (SHOWROOM選抜)
  • AKB48 Wakate Senbatsu (AKB48若手選抜)
  • Macharin and Friends. (まちゃりんと仲間たち。)
  • Kojizaka46 (こじ坂46): hợp tác giữa AKB48 và Nogizaka46
  • Team Surprise (チームサプライズ)
  • Sashining Musume.(サシニング娘。)
  • Kabutomu Chu! (かぶとむChu!)
  • Dendenmu Chu! (でんでんむChu!)
  • WONDA Senbatsu (WONDA選抜)
  • Gensou & Jikisou (ゲンソー&ジキソー)
  • Asa ga Kita Senbatsu (あさが来た選抜)
  • 1st Campus
  • Next Generation Senbatsu (次世代選抜)
  • Renacchi Sousenkyo Senbatsu (れなっち総選挙選抜)
  • Mushi Kago (虫かご)
  • Sakamichi AKB (坂道AKB): hợp tác giữa AKB48 và Sakamichi Series
  • Nogizaka AKB (乃木坂AKB): hợp tác giữa AKB48 và Nogizaka46
  • IZ4648: hợp tác giữa AKB48, Nogizaka46 và Iz*One
  • 48 Group NEXT12 (48グループNEXT12)
  • Sucheese (すちーず)
  • Soukantoku to Captains (総監督とキャプテンズ)

Các nhóm nhỏ biểu diễn[sửa | sửa mã nguồn]

No3b (ノース リーブス)/No Sleeves (ノースリーブス) (Đã giải tán)

  • Kojima Haruna (Team A) (đã tốt nghiệp)
  • Takahashi Minami (Tổng quản của 48 Group) (đã tốt nghiệp)
  • Minegishi Minami (Team K – Captain) (đã tốt nghiệp)

Watarirouka Hashiritai (渡り廊下 走り 隊)/ Watarirouka Hashiritai 7 (渡り廊下 走り 隊 7) (Đã giải tán)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Oota Aika (HKT48 Team KIV) (đã tốt nghiệp)
  • Nakagawa Haruka (JKT48 – Team J / Team Kaigai) (đã tốt nghiệp)
  • Watanabe Mayu (team B) (Đã tốt nghiệp)
  • Kikuchi Ayaka (Đã tốt nghiệp)
  • Iwasa Misaki (Team B) (Đã tốt nghiệp)
  • Komori Mika (Đã tốt nghiệp)

French Kiss (フレンチ キス) (Đã giải tán)

  • Kashiwagi Yuki (Team B / NGT48)
  • Takajo Aki (Team K)(đã tốt nghiệp)
  • Kuramochi Asuka (Đã tốt nghiệp)

Not yet (ノット・イェット) (2011–2015)

  • Oshima Yuko (đã tốt nghiệp)
  • Kitahara Rie (NGT48) (đã tốt nghiệp)
  • Sashihara Rino (HKT48 -Team H) (đã tốt nghiệp)
  • Yokoyama Yui (Tổng quản 48 Group) (Team A)

Honey Harmony (ハニーハーモニー)

  • Inagaki Kaori
  • Iwatate Saho
  • Shimizu Maria
  • Nagatomo Ayami
  • Fukuoka Seina

IxR

  • Omori Maho
  • Oguri Yui
  • Kubo Satone
  • Nishikawa Rei
  • Yamauchi Mizuki

DiVA (Đã giải tán)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Akimoto Sayaka (team K)(đã tốt nghiệp)
  • Umeda Ayaka (NMB48 Team BII)(đã tốt nghiệp)
  • Masuda Yuka (team K)(đã tốt nghiệp)
  • Miyazawa Sae (SNH48 – Team SII / SKE48 – Team S)(đã tốt nghiệp)

Chocolove from AKB (Đã giải tán)[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nakanishi Rina (team A) (đã tốt nghiệp)
  • Akimoto Sayaka (team K)(đã tốt nghiệp)
  • Miyazawa Sae (SNH48 – Team SII / SKE48 – Team S)(đã tốt nghiệp)

TinTlip

  • Asai Nanami
  • Sato Minami
  • Shitao Miu
  • Suzuki Yuka
  • Chiba Erii
  • Nagano Serika
  • Yamamoto Ruka (đã tốt nghiệp)

Melisma

  • Utada Hatsuka
  • Otake Hitomi
  • Oda Erina
  • Kitazawa Saki
  • Takahashi Sayaka
  • Yokoyama Yui

SENSUALITY (センシュアリティ)

  • Hidaritomo Ayaka
  • Kato Rena
  • Komiyama Haruka
  • Miyazaki Miho
  • Mogi Shinobu
  • Shinozaki Ayana
Jankenmin

  • Tanabe Miku (team B) (đã tốt nghiệp)
  • Yumoto Ami (team K)
  • Komiyama Haruka (team 4)
  • Takeuchi Saki (SKE48)
  • Fukuoka Seina (team B)
  • Nozawa Rena (team 4)
  • Shibuya Nagisa (NMB48)

Nona Diamonds[sửa | sửa mã nguồn]

  • Akiyoshi Yuka (HKT48)
  • Ikeda Yura (STU48)
  • Okada Nana (AKB48/STU48)
  • Nojima Kano (SKE48)
  • Furuhata Nao (SKE48)
  • Mimura Hino (NGT48)
  • Yano Honoka (STU48)
  • Yamauchi Suzuran (SKE48)
  • Yamasaki Amiru (NMB48)

Lacet (ラセ)

  • Gyoten Yurina
  • Mukaichi Mion
  • Saito Haruna
  • Takahashi Ayane
  • Takaoka Kaoru
  • Yoshihashi Yuzuka

GRATS (グラッツ)

  • Kashiwagi Yuki
  • Ma Chia-Ling
  • Muto Tomu
  • Omori Miyuu
  • Sasaki Yukari
  • Yoshikawa Nanase

NO NAME (Đã giải tán)

  • Iwata Karen (Team A) (đã tốt nghiệp)
  • Watanabe Mayu (Team B) (đã tốt nghiệp)
  • Nakaya Sayaka (Team A) (đã tốt nghiệp)
  • Sato Amina (Team B) (đã tốt nghiệp)
  • Hata Sawako (Team KII) (đã tốt nghiệp)
  • Yagami Kumi (Team S) (đã tốt nghiệp)
  • Mita Mao (Team M) (đã tốt nghiệp)
  • Ishida Haruka (Team A) (đã tốt nghiệp)
  • Sato Sumire (Team B) (đã tốt nghiệp)

Các nhóm nhỏ cho album[sửa | sửa mã nguồn]

  • Up-and-coming girls
  • Sashining Musume. (サシニング娘。)

Khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • WRD48
  • Honegumi from AKB48 (ほね組 from AKB0969756783)
  • ICE from AKB0969756783)
  • Crayon Friends from AKB48 (新ユニット「クレヨンフレンズ from AKB48」): hợp tác giữa AKB48 và Crayon Shin-chan
  • Okashina Sisters (お菓子 な シスターズ?)
  • AKBIdoling!!! (AKBアイドリング!!!): hợp tác giữa AKB48 và Idoling!!!
  • AKB Takkyubu (AKB卓球部)
  • Porrima from AKB48
  • Team BS
  • Milk Planet (ミルクプラネット)
  • NyaaKB with Tsuchinoko Panda (ニャーKB with ツチノコパンダ)
  • YJ7
  • YM7
  • BABY GAMBA (ベビーガンバ)
  • Ojarumaru Sisters (おじゃる丸シスターズ)
  • Sukeban Girls (スケバンGirls)
  • Watarirōka Hashiritai (渡り廊下走り隊?) (2013)
  • 75 years Yomiuri Giants Foundation (読売巨人軍創立75周年応援隊): hợp tác giữa AKB48, SKE48 và Đội Bóng chày Yomiuri Giants
  • Natto Angel (ナットウエンジェル): do Miyazaki Miho, Tomomi Kasai, Itano Tomomi sáng lập
  • Queen & Elizabeth: sub-unit được lập để hát bài hát chính cho bộ phim Kaimen Rider W
  • Team Dragon from AKB48 (チームドラゴン from AKB48): sub-unit được lập để hát bài hát chính cho bộ phim Dragon Ball
  • Natto Angels Z (ナットウエンジェル Z)
  • Miniskirt (ミニスカート): hợp tác giữa AKB48 và Takara Tomy
  • AKB48 Kaspersky (AKB48 カスペルスキー 研究所): hợp tác giữa AKB48 và Kaspersky Lab
  • Team KISHIN from AKB48: hợp tác giữa AKB48 và Kishin Shinoyama
  • Team Z: hợp tác giữa AKB48 và Kyoraku Sangyo cho “Pachinko Zenigata Heiji”
  • Sashihara Rino with AKB48 Team 8 (指原莉乃 with AKB48 Team 8): Sashihara Rino cùng Team 8 quảng bá xe hơi hybrid Toyota Prius PHV
  • Nona Diamonds (ノナ ダイヤモンズ)
  • SenSuality (センシュアリティ)
  • Mayuzaka46 (まゆ坂46)
  • AnRiRe (アンリレ)
  • Tentoumu Chu! (てんとうむChu!)
  • Dendenmu Chu! (でんでんむChu!)

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

  • Set List: Greatest Songs 2006–2007 (2008)
  • Kamikyokutachi (2010)
  • Koko ni Ita Koto (2011)
  • 1830m (2012)
  • Tsugi no Ashiato (2014)
  • Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe! (2015)
  • 0 to 1 no Aida (2015)
  • Thumbnail (2017)
  • Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake o Shitteiru (2018)

Danh sách phim & chương trình truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách sự kiện[sửa | sửa mã nguồn]

Các chuyến lưu diễn & concert[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc tổng tuyển cử[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi ra mắt, nhóm tổ chức 10 cuộc tổng tuyển cử từ 2009

AKB48 Kouhaku Utagassen[sửa | sửa mã nguồn]

Janken Taikai[sửa | sửa mã nguồn]

Sự kiện thể thao[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 Group Draft Kaigi[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 Group Singing Competition[sửa | sửa mã nguồn]

Natsu Matsuri[sửa | sửa mã nguồn]

  • AKB48 Natsu Matsuri 2014[319]

Unit Battles[sửa | sửa mã nguồn]

  • AmebaPigg Unit Battle[320]

Giải thưởng và thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]

Những kỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 và những bài hát của nhóm đã lập những kỷ lục sau:

  • Kỷ lục Guinness cho nhóm nhạc nữ lớn nhất thế giới [5][364]
  • Kỷ lục Guinness cho số lượng ca sĩ nhạc Pop nhiều nhất xuất hiện trong một trò chơi điện tử: Vào tháng 12/2012, trò chơi mô phỏng hẹn hò của nhóm AKB1/149 Ren’ai Sōsenkyo có sự tham gia của 149 thành viên.[365]
  • Kỷ lục Guinness cho nhóm nhạc xuất hiện nhiều nhất trong các clip quảng cáo truyền hình khác nhau trong 1 ngày: Vào tháng 2/2012, các thành viên AKB48 xuất hiện trong 90 quảng cáo cho Wonda Coffee Morning Shot của Asahi, phá vỡ kỷ lục 60 quảng cáo trước đó.[235][366]
  • Nghệ sĩ nữ bán được nhiều đĩa đơn nhất Nhật Bản: Vào tháng 5/2013, sau khi phát hành đĩa đơn thứ 31 “Sayonara Crawl”, doanh số chung cho các đĩa đơn của AKB48 đạt 21,852 triệu kể từ khi ra mắt lần đầu năm 2006 (phá kỷ lục trước đó của Hamasaki Ayumi là 21,416 triệu) [367]
  • Nhóm nhạc nữ có số lượng đĩa đơn bán ra cao nhất Nhật Bản: Vào tháng 6/2013, doanh số của “Sayonara Crawl” đạt 0969756783 bản, phá vỡ kỷ lục năm 1997 của Speed ​​cho “White Love”. Tổng doanh số của đĩa đơn đạt 0969756783[368][369]
  • Có nhiều đĩa đơn liên tiếp bán được triệu bản nhất tại Nhật Bản: Vào tháng 10/2013. đĩa đơn thứ 33 “Heart Electric” bán được 0969756783 bản trong ngày đầu tiên ra mắt, trở thành đĩa đơn đạt mốc 1 triệu bản thứ 14 liên tiếp của nhóm và phá vỡ kỷ lục trước đó là 13 do B’z nắm giữ.[370]
  • Có nhiều đĩa đơn bán được triệu bản nhất tại Nhật Bản: Vào tháng 12/2013, đĩa đơn thứ 34 “Suzukake no Ki no Michi de “Kimi no Hohoemi wo Yume ni Miru” to Itteshimattara Bokutachi no Kankei wa Dou Kawatteshimaunoka, Bokunari ni Nannichi ka Kangaeta Ue deno Yaya Kihazukashii Ketsuron no youna Mono” (gọi tắt là Suzukake Nanchara) bán được 0969756783 bản trong tuần đầu tiên, là đĩa đơn đạt triệu bản thứ 16 của AKB48, phá vỡ kỷ lục trước đó do B’z nắm giữ trong 13 năm 9 tháng.[371]
  • Doanh số đĩa đơn cho nghệ sỹ nữ cao nhất tại Nhật Bản: Vào tháng 6/2017, đĩa đơn thứ 48 “Negaigoto no Mochigusare” bán được 0969756783 bản trong tuần đầu ra mắt, phá vỡ kỷ lục trước đó do Dreams Come True nắm giữ[372]

Các nhóm nhạc “chị em” đồng hành[sửa | sửa mã nguồn]

SKE48 Team KII biểu diễn tại nhà hát

Akimoto Yasushi đã tạo ra những “nhóm chị em” cùng đồng hành với AKB48 dựa trên tiêu chí “thần tượng bạn có thể gặp mặt”. Những nhóm này cũng có những nhà hát riêng tại Nhật Bản và các nước châu Á, và có những đĩa đơn riêng. Những thành viên của các nhóm nhạc chị em đôi khi cũng xuất hiện trong những buổi trình diễn và đĩa đơn của AKB48 [373][374] Matsui Jurina (SKE48) và Watanabe Miyuki (NMB48), thành viên của các nhóm chị em với AKB48 cũng là những thành viên kiêm nhiệm đầu tiên của AKB48.[375]

Nhóm nhạc chị em đầu tiên của AKB48 là SKE48, được thành lập năm 2008 và nhà hát của họ được dựng ở Sakae, Nagoya.[376] Sau đó SDN48, NMB48 (tại Namba, Osaka), và HKT48 (tại Fukuoka) được ra đời. Năm 2011, AKB48 công bố thành lập nhóm chị em đầu tiên bên ngoài Nhật Bản JKT48 đặt tại Jakarta, Indonesia[377], sau đó là SNH48 tại Thượng Hải, Trung Quốc vào năm 2012 (Tuy nhiên đã tách ra khỏi PJ48 vào 2016 và hiện đang hoạt động độc lập)[378], về sau AKB48 thành lập AKB48 China vào 12/10/2016, ra mắt AKB48 Team SH vào năm 2018[379][380].

Ngoài các nhóm chị em, AKB48 cũng có một “đối thủ chính thức” là nhóm Sakamichi Series cùng chung nhà sản xuất Akimoto Yasushi thành lập vào năm 2011, gồm 4 nhóm: Nogizaka46,[381] và các nhóm chị em Sakurazaka46, Yoshimotozaka46 và Hinatazaka46, sau khi Sony Music Nhật Bản xây dựng tòa nhà văn phòng chính.[381]

Năm 2015, tại concert AKB48 Request Hour Setlist Best 1035, AKS công bố thành lập NGT48 ở Niigata với Kitahara Rie làm đội trưởng và Kashiwagi Yuki kiêm nhiệm[382]. STU48 (Setouchi48) ra đời năm 2017 đặt tại vùng Setouchi, với rạp hát trong một con tàu và đồng sở hữu bởi hội đồng du lịch vùng Setouchi.[383]

Việc thành lập TPE48 được thông báo vào ngày 10 tháng 10 năm 2011 trên blog chính thức của AKB48. Vào thời điểm đó, AKS hợp tác với Chi nhánh Yoshimoto Kogyo Đài Bắc và dự kiến ​​bắt đầu việc thử giọng vào năm 2012. Tuy nhiên, hai bên đã không đạt được đồng thuận trong công tác chuẩn bị nên đã ngừng hợp tác nửa cuối năm 2012.

Vào tháng 3 năm 2016, AKS thông báo thành lập 3 nhóm chị em khác ngoài Nhật Bản là BNK48 tại Bangkok, Thái Lan; MNL48 tại Manila, Philippines và TPE48 tại Đài Bắc, Đài Loan.[384] Vào ngày 30 tháng 7 năm 2018, AKS đã hủy bỏ hợp đồng liên doanh và giấy phép với công ty quản lý của TPE48 và tạo nên AKB48 Team TP. CGM48 được thành lập theo tên thành phố Chiang Mai, Thái Lan là nhóm chị em trong nước của BNK48 được công bố tại Chiang Mai vào ngày 2 tháng 6 năm 2019.[385]

Vào ngày 27 tháng 12 năm 2017, Yokoyama Yui- tổng quản kiêm cựu đội trưởng Team A thông báo về việc thành lập MUM48, có trụ sở tại Mumbai, Ấn Độ vào năm 2018, thông qua một buổi phát sóng trực tiếp tại Showroom[386]. Vào ngày 19 tháng 6 năm 2019, MUB48 đổi tên thành MUM48 và thành lập DEL48 có trụ sở Delhi[387]. Vào tháng 10 năm 2020, hầu hết các thành viên đã mở tài khoản Instagram cá nhân, dẫn đến tin đồn về việc tan rã. Deepak Nandal, nhà sản xuất DEL48 xác nhận YKBK48 giải thể nhóm và sẽ chấm dứt hợp đồng của các thành viên vào cuối tháng 10 do đại dịch COVID-19.

Ngày 21 tháng 6 năm 2018 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, AKS có buổi công bố thông tin về nhóm nhạc nhỏ mới sẽ hoạt động tại thị trường Việt Nam lấy tên là SGO48, tuyển chọn thành viên bắt đầu từ tháng 7. Nhóm ra mắt vào ngày 22 tháng 12 cùng năm.[388][389]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Enjo-kosai” (援助交際) là thuật ngữ mô tả hiện tượng nữ sinh quan hệ tình dục với những người đàn ông lớn tuổi để kiếm tiền.
  2. ^ Các thành viên tham gia: AKB48 – Mukaichi Mion, Yokoyama Yui, Kashiwagi Yuki, Takahashi Juri, Okada Nana, Yamauchi Mizuki, Okabe Rin, Oguri Yui. SKE48 – Matsui Jurina, Suda Akari. NMB48 – Shiroma Miru. HKT48 – Sashihara Rino, Tanaka Miku NGT48 – Ogino Yuka, Nakai Rika. STU48 – Takino Yumiko. BNK48 – Miori, Mobile, Music, Mewnich, Pun, Orn, Kaew, Jennis, Pupe, Kaimook, Jane, Fond, New, Faii, Korn và Myyu
  3. ^ Các thành viên tham gia: AKB48- Iriyama Anna, Kato Rena, Taguchi Aika, Chiba Eri, Nishikawa Rei, Maeda Ayaka, Mukaichi Mion, Yamane Ryoha, Kashiyama Yui, Minegishi Minami, Muto Tomu, Komiyama Haruka, Kashiwagi Yuki, Oya Shizuka, Sasaki Yukari, Iwatate Saho, Taniguchi Megu, Fukuoka Seina, Satone Kubo, Omori Maho, Murayama Yuiri, Okada Nana, Nagisa Asai, Mizua Yamato, Sakaguchi Nagisa, Okabe Rin, Oguri Yui, Erina Oda, Serika Nagano, Onishi Momoka, Shitao Miu, Gyoten Yurina, Kuranoo Narumi. SKE48 –Suda Akari. NMB48 –Shiroma Miru, Yoshida Akari HKT48 –Tanaka Miku. NGT48- Homma Hinata STU48 –Ishida Chiho, Takino Yumiko. JKT48 –Shani. BNK48 –Mobile. MNL48 –Abby. AKB48 Team SH –Lưu Niệm. AKB48 Team TP — Khâu Phẩm Hàm. SGO48 — Anna (Trần Cát Tường). CGM48 — Sita. DEL48 — Glory.
  4. ^ Taniguchi Megu & Honda Hitomi thay thế Kashiwagi Yuki & Yokoyama Yui vì lý do sức khỏe, Kato Rena thay thế Mukaichi Mion do dương tính với COVID-19
  5. ^ Iriyama Anna, Okabe Rin, Oguri Yui, Kato Rena, Shitao Miu, Taguchi Manaka, Chiba Erii, Nishikawa Rei, Mukaichi Mion, Yokoyama Yui, Kuranoo Narumi, Muto Tomu, Omori Maho, Kubo Satone, Taniguchi Megu, Fukuoka Seina, Honda Hitomi, Asai Nanami, Onishi Momoka, Okada Nana, Murayama Yuiri, Yamauchi Mizuki tham gia biểu diễn
  6. ^ Omori Maho, Kubo Satone, Taniguchi Megu, Honda Hitomi, Onishi Momoka, Okada Nana, Murayama Yuiri, Yamauchi Mizuki, Okabe Rin, Oguri Yui, Chiba Erii, Yokoyama Yui, Kuranoo Narumi, Oda Erina, Shitao Miu, Muto Tomu tham gia biểu diễn
  7. ^ Những chàng trai ‘ăn cỏ’ -(草食(系)男子, Sōshoku(-kei) danshi) là thuật ngữ chỉ những chàng trai trẻ, kiếm tiền ít, tiêu cũng ít. Họ không mấy quan tâm tới tiền và tình dục nhưng chú ý nhiều hơn tới thời trang và vẻ bề ngoài.
  8. ^ Team của các thành viên được chuyển sang các nhóm chị em nước ngoài thuộc AKB48
  9. ^ Izuta Rina đại diện nhóm tham dự

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Galaxy Records Sells AKB48’s Tsugi no Ashiato Album in Philippines”. animenewsnetwork.com. Anime News Network. 6 tháng 11 năm 2015.
  2. ^ Monica Hesse (ngày 27 tháng 3 năm 2012). “Japanese girl group AKB48 breezes through D.C. in whirlwind of cuteness”. The Washington Post. Truy cập 9 tháng 4 năm 2012.
  3. ^ “ももクロ : “音楽好き”の支持でポストAKBに急浮上? 群雄割拠のアイドルシーン” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital. ngày 6 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2012. Truy cập 18 tháng 5 năm 2012.
  4. ^ “Japan all-girl group ad ‘encourages homosexuality’ ”. Agence France-Presse. Yahoo! News. ngày 20 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2012. Truy cập 18 tháng 5 năm 2012.
  5. ^ a b “AKB48 is officially the world’s biggest group”.
  6. ^ “Otaku band AKB48 morphs into $200M business”. CNET News. ngày 7 tháng 2 năm 2012. Truy cập 12 tháng 2 năm 2012.
  7. ^ “Oricon reveals “Artist Total Sales Revenue” ranking for 2012”. tokyohive. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  8. ^ “【オリコン】AKB48、女性歴代1位の通算39作首位 33作連続34作目ミリオン”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2021.
  9. ^ “RIAJ gives AKB48 “Teacher Teacher” a “3 Million” certification – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2021.
  10. ^ “シングル年間ランキング-ORICON STYLE ランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2011. Truy cập 17 tháng 7 năm 2011.
  11. ^ “【オリコン年間】AKB48、史上初の年間シングルTOP5独占 総売上162.8億円で7冠” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. ngày 19 tháng 12 năm 2011. Truy cập 19 tháng 12 năm 2011.
  12. ^ “【オリコン】史上初!AKB48が3作連続初週ミリオン 歴代シングル初週売上TOP3独占”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 1 tháng 11 năm 2011. Truy cập 1 tháng 11 năm 2011.
  13. ^ “【オリコン”平成セールス”ランキング】シングルはSMAP、アルバムは宇多田ヒカルが1位 ”平成No.1″アーティスト別セールスのB’zからはコメント到着”.
  14. ^ “AKB48: THE SURPRISING TRUTH BEHIND THE WORLD’S BIGGEST BAND”.
  15. ^ “Nhóm AKB48 đến Việt Nam biểu diễn: Điều gì đã tạo nên biểu tượng J-pop?”.
  16. ^ “Các cô gái trong nhóm nhạc lớn nhất Nhật Bản bị cấm yêu”.
  17. ^ “What is AKB48?”.
  18. ^ “Từ khi nào mà rời nhóm nhạc được gọi là tốt nghiệp?”.
  19. ^ “AKBINGO”.
  20. ^ “今月も”.
  21. ^ “1st Generation (Original Team A)”.
  22. ^ “Shinoda Mariko”.
  23. ^ “2nd Generation (Original Team K)”.
  24. ^ “AKB48 デビューCD 「桜の花びらたち」 2/1発売の宣伝トラック”.
  25. ^ “チームA 1st Stage「PARTYが始まるよ」【初回生産限定盤】”.
  26. ^ “AKB48、デビュー作が初登場TOP10入り!モー娘。以来の快挙達成!”.
  27. ^ “宇佐美友紀が今月一杯でAKB48から卒業することになりました。”.
  28. ^ “AKB48 売上 – スカート、ひらり”.
  29. ^ “AKB48、ついにメジャーデビュー決定!!”.
  30. ^ “チームBオーディション締め切り決定!”.
  31. ^ “3rd Generation (Original Team B)”.
  32. ^ “来年からの新体制について”.
  33. ^ “アーティスト&楽曲検索 会いたかった”.
  34. ^ “AKB48 売上 – AKB48シングル”.
  35. ^ “アーティスト&楽曲検索 軽蔑していた愛情”.
  36. ^ “ライブレポート:AKB48、初の全国ツアーが開幕”.
  37. ^ “AKB48—21世纪的丑小鸭传说”.
  38. ^ “AKB48公式サイト|ディスコグラフィー” (bằng tiếng Nhật). AKS. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2011.
  39. ^ “夕陽を見ているか?”.
  40. ^ “AKB48—21世纪的丑小鸭传说”.
  41. ^ “AKB48の新年ニューシングル&AXライブ4daysが決定”.
  42. ^ “AKB48劇場「桜の花びらたち2008」購入者特別プレゼント!”.
  43. ^ “AKB48「ポスター44種類コンプでイベント招待」企画、「独禁法違反」のおそれで中止”.
  44. ^ “AKB48 Launching SKE48 In Nagoya”.
  45. ^ “AKB48 member fired over leaked ‘Purikura’ photo”.
  46. ^ “菊地からファンの皆様へ”.
  47. ^ “AKB48コレクター心を刺激する裏ジャケ19パターン”.
  48. ^ “松井珠理奈&大島優子!AKB新曲「UZA」はWセンター!!”.
  49. ^ “大声ダイヤモンド/AKB48”.
  50. ^ “10年桜 AKB48のプロフィールならオリコン芸能人事典-ORICON STYLE”.
  51. ^ “” AKB48選抜総選挙”開票! トップ当選の前田敦子「AKBに人生捧げる!」”.
  52. ^ “言い訳Maybe(マキシ+DVD複合)”.
  53. ^ “止めたAKB48、再開したモー娘。”政権交代”が進むアイドル界の「握手会狂想曲」”.
  54. ^ “Come and discover AKB48 pop sensation!”.
  55. ^ “AKB48 U.S. DEBUT CONCERT IN NYC”.
  56. ^ “ゴールド等認定作品一覧 2009年9月”.
  57. ^ “AKB48初のシングル首位、17.9万枚で09年女性アーティスト初動売上トップに”.
  58. ^ “AKB48 top with Sakura no Shiori”.
  59. ^ “2010年12月度 認定作品”.
  60. ^ “AKB48が初週50万枚超で首位 モー娘。以来9年半ぶり快挙”.
  61. ^ “Japanese Musical Group AKB48 will be Official Guests of Honor at Anime Expo 2010”.
  62. ^ “Heavy Rotation”.
  63. ^ “AKB48、女性グループ歴代最高の初週売上82.7万枚 5作連続シングル首位”.
  64. ^ “Beginner”.
  65. ^ “AKB48×ハロプロがグラビア初コラボ! 渡辺麻友×鈴木愛理が網タイツ姿で表紙飾る”.
  66. ^ “AKB48が「スパシーバ」 モスクワで初コンサート”.
  67. ^ “続 AKB48海外公演!!”.
  68. ^ “Special Events | Singapore Toy, Games & Comic Convention (STGCC)”.
  69. ^ “AKB48・小野恵令奈、卒業後の進路は 「海外留学」&「女優業勉強」”.
  70. ^ “AKB48から小野恵令奈が卒業……「明日から自分の夢に向かって」”.
  71. ^ “AKB48 5th Anniversary”.
  72. ^ “Sakura no Ki ni Narou”.
  73. ^ “AKB48 breaks single-day sales records, sells over 655,000 copies”.
  74. ^ “AKB48 sets record with Sakura no Ki ni Narou”.
  75. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 to be continued “10 Nengo, Shoujo Tachi wa Ima no Jibun ni Nani o Omou Nodarou?” ”.
  76. ^ “AKB48新アルバムに新曲11曲、SKE・SDN・NMB参加曲も”.
  77. ^ “AKB48 groups pledge 500 million yen for earthquake relief”.
  78. ^ “AKB48、新シングル&選抜総選挙決定!収益一部を義援金に”.
  79. ^ “Activities of AKB48’s Tohoku earthquake reconstruction support project”.
  80. ^ “HKT48”.
  81. ^ “AKB48 to make a guest appearance at “Golden Melody Awards” in Taiwan”.
  82. ^ “Everyday, Kachuusha”.
  83. ^ “” Nogizaka46″ to debut as AKB48′s “official rival” ”. tokyofever.com. 28 tháng 6 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2011. references Oricon article “” AKB48公式ライバル”乃木坂46結成 一般公募でメンバー決定”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 29 tháng 6 năm 2011.
  84. ^ “Flying Get”.
  85. ^ “Kaze wa Fuiteiru”.
  86. ^ “Ue Kara Mariko”.
  87. ^ “AKB48米沢瑠美&平嶋夏海、グループを離脱”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 28 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2012.
  88. ^ “SKE松井珠理奈、NMB渡辺美優紀がAKB48に期間限定加入”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2012.
  89. ^ “AKB48、初の東京ドームコンサートは3DAYS公演”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 24 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2012.
  90. ^ “SKE松井珠理奈、NMB渡辺美優紀がAKB48に期間限定加入”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2012.
  91. ^ “AKB48前田敦子 :不動のセンターが卒業を発表 6年半の活動に幕” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital Co. Ltd. 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2012.
  92. ^ “AKB48 in TOKYO DOME ~1830m no Yume~”.
  93. ^ AKB48グループ今度は上海 (bằng tiếng Nhật). Asahi Shimbun. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  94. ^ “さしこ、AKB48チームA最終公演は6・20” (bằng tiếng Nhật). 17 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  95. ^ “AKB48アルバムをドーム前発売&じゃんけん大会開催決定” (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012.
  96. ^ “Eien Pressure”.
  97. ^ “1830m”.
  98. ^ “J-pop xào xáo vì nhóm nhạc AKB48 cải tổ đội hình”.
  99. ^ “So long!”.
  100. ^ “Sayonara Crawl”.
  101. ^ “Koi Suru Fortune Cookie”.
  102. ^ “3800人背にセンターさしこ!AKB新曲「恋するフォーチュンクッキー」”.
  103. ^ “Heart Ereki”.
  104. ^ “Idol Yuko Oshima Announces Plans to Graduate From AKB48 – News”. Anime News Network. 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2014.
  105. ^ “Oricon 2013 Yearly Charts: Artist Total Sales”. tokyohive. 6Theory Media, LLC. 16 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2015.
  106. ^ “AKB48’s latest album sells over 950,000 copies in the first week”. Tokyohive. 6Theory Media. 27 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  107. ^ “AKB48 reveals the details on their 35th single”. Tokyohive. 6Theory Media. 24 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014.
  108. ^ “AKB48 announces the creation of ‘Team 8’ with a new concept”. Tokyohive. 6Theory Media. 23 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2014. references Oricon “【動画】AKB「会いに行く」新チーム8結成 3月発足、8月劇場デビューへ” [Launching March 8, a “go to see” AKB48 new team, to August theater debut]. Oricon (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 1 năm 2014.
  109. ^ “New Team for the AKB48” (bằng tiếng Nhật). Japanized World. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  110. ^ “” 大人AKB”塚本さん、愛称は「まりり」 ぱるるが命名 (AKB48) ニュース-ORICON STYLE”. Oricon.co.jp. 17 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2014.
  111. ^ 【オリコン】AKB新曲が初日売上歴代最高146.2万枚 初日ミリオンは7作目 – 芸能 – 最新ニュース一覧 – 楽天WOMAN (bằng tiếng Nhật). Woman.infoseek.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2015.
  112. ^ “Kokoro no Placard”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  113. ^ “Kibouteki Refrain”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  114. ^ “「バトンつなげたい」たかみな卒業宣言全文”. nikkansports.com. 8 tháng 12 năm 2014.
  115. ^ “たかみな”本当に”AKB卒業発表、後任総監督に横山由依指名”. sponichi.co.jp. 8 tháng 12 năm 2014.
  116. ^ 2014年 年間音楽&映像ランキング発表 6ページ目 [2014 annual music & video rankings announced sixth page]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015. Tóm lược dễ hiểu – Tokyohive.
  117. ^ “Koko ga Rhodes da, Koko de Tobe!”.
  118. ^ “Green Flash”.
  119. ^ “AKB48 39thシングル「Green Flash」”.
  120. ^ “川栄李奈 無念の卒業…今後は女優業に全力「夢を追いかけたい」”.
  121. ^ “川栄、卒業は「夢を叶えたいと思ったから」」”.
  122. ^ “こじはる、武藤十夢らNYにAKB、ファン5000人集結に感動”.
  123. ^ “AKB48、6年ぶりNYライブに5000人熱狂 里田まい現地報告「ものすごい熱気」”.
  124. ^ “僕たちは戦わない(初回限定盤/Type A)”.
  125. ^ “AKB48 41st Single Senbatsu Sousenkyo ~Juni Yoso Fukano, Oare no Ichiya~”.
  126. ^ “Rino Sashihara crowned amid tears and jeers at AKB election”.
  127. ^ “Halloween Night”.
  128. ^ “Kuchibiru ni Be My Baby”.
  129. ^ “AKB48 overtakes iconic rock group to become Japan’s No.1”.
  130. ^ “0 to 1 no Aida”.
  131. ^ “Kimi wa Melody”.
  132. ^ “” AKB48’s 43rd Single “Kimi wa Melody” revealed on the final day of Request Hour 2016!” ”.
  133. ^ “【AKB紅白】台湾オーディション合格の馬嘉伶「ヘビロテ」1人で熱唱”.
  134. ^ “Ma Chia-Ling”.
  135. ^ “Tsubasa wa Iranai”.
  136. ^ “LOVE TRIP / Shiawase wo Wakenasai”.
  137. ^ “High Tension”.
  138. ^ “AKB48が上海で開催の「中日友好文化交流の旅」スタートセレモニーに登場”.
  139. ^ “Thumbnail”.
  140. ^ “Shoot Sign”.
  141. ^ “Negaigoto no Mochigusare”.
  142. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 Sonzai suru Riyuu”.
  143. ^ a b “AKB48 49th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  144. ^ “#SukiNanda”.
  145. ^ “Buồn nhất Tổng tuyển cử lần thứ 9 của AKB48: Watanabe Mayu thông báo tốt nghiệp”.
  146. ^ “11-gatsu no Anklet”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  147. ^ “PD48 contestants who performed in 2017 MAMA Japan”.
  148. ^ a b “Độc quyền: 15 câu chuyện hấp dẫn mà bạn có thể bỏ lỡ nếu không ‘tập trung’ xem MAMA 2017”.
  149. ^ “[2017 MAMA in Japan] AKB48&CHUNG HA&Weki Meki&PRISTIN&fromis_9&Idol School Class 1_IT’S SHOWTIME”.
  150. ^ “[2017 MAMA in Japan] CHUNG HA&Weki Meki&PRISTIN&fromis_9&Idol School Class 1&AKB48_Pick Me”.
  151. ^ “AKB48 xác nhận tham gia ‘Produce 48’ của Mnet, một cuộc chiến sống còn mới sắp bắt đầu!”.
  152. ^ “Details on AKB48 Shuffle Team Members in late 2017”. odonsalvatore.blogspot.com. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2018.
  153. ^ “Bokutachi wa, Ano Hi no Yoake wo Shitteiru”.
  154. ^ “Jabaja”.
  155. ^ “Teacher Teacher”.
  156. ^ “Single thứ 52 của AKB48 nhanh chóng bốc hơi hơn một triệu bản trong tuần đầu tiên”.
  157. ^ a b “AKB48 53rd Single Sekai Senbatsu Sousenkyo”.
  158. ^ “Sentimental Train”.
  159. ^ “Không còn là tin đồn, AKB48 sẽ tham gia ‘cuộc chiến sống còn’ Produce 48!”.
  160. ^ “Dàn thí sinh Produce 48 ra mắt đẹp hút hồn, idol Nhật Bản chiếm sóng nhất”.
  161. ^ “Produce 48 khép lại, lộ diện top 12 thí sinh thắng cuộc, debut với tên IZONE”.
  162. ^ “Ba thành viên AKB48G tạm dừng mọi hoạt động để tập trung cho IZ*ONE”.
  163. ^ “NO WAY MAN”.
  164. ^ “Miyawaki Sakura trở thành center cho MV NO WAY MAN trước khi tạm dừng mọi hoạt động ở 48 Group”.
  165. ^ “センチメンタルトレイン (Type B)”. www.melon.com (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2018.
  166. ^ “Cuộc gặp gỡ của hai nhóm nhạc đông thành viên nhất Việt Nam và Nhật Bản”.
  167. ^ “チーム8が〈交通安全ベトナム「絆」駅伝2018 IN HANOI〉に出演!”.
  168. ^ “AKB48 x BNK48 – Koisuru Fortune Cookie + Talk (69th NHK Kouhaku Uta Gassen 0969756783)”.
  169. ^ “” BNK48「NHK紅白歌合戦」出演メンバーが決定!日本人メンバー伊豆田莉奈と大久保美織も” ”.
  170. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2019 in Bangkok”.
  171. ^ “76 thiếu nữ của các nhóm nhạc châu Á diễn ở Thái Lan”.
  172. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2019 in Shanghai”.
  173. ^ “AKB48 in Taipei 2019 ~Are You Ready For It?~”.
  174. ^ “AKB48 Zenkoku Tour 2019”.
  175. ^ “Các cô gái AKB48 ‘làm nóng’ giải Việt Nam Kizuna Ekiden 2019”.
  176. ^ “Lần thứ hai nhóm nhạc AKB48 tham dự giải chạy Ekiden 2019”.
  177. ^ “AKB48 chính thức nói lời chia tay với thành viên xuất sắc nhất”.
  178. ^ “Jiwaru DAYS”.
  179. ^ “番組を応援してくださった皆さんへ”.
  180. ^ “AKS松村氏、NGT騒動と総選挙開催見送りは「関係ございません」”. SANSPO.COM (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 3 năm 2019.
  181. ^ “Minegishi Minami bất ngờ thông báo tốt nghiệp AKB48”.
  182. ^ “Sustainable”.
  183. ^ “AKB48 Cafe & Shop in Akihabara Closes After 8 Years”.
  184. ^ “Tin buồn cho các Fan của AKB48, Tiệm Cafe AKB48 đóng cửa vào tháng 12”.
  185. ^ “紅白”異例”の曲目先行発表!AKBは「恋チュン 世界選抜SP」LiSAは「紅蓮華」”.
  186. ^ “AKB48’s Japanese company announces division of management in preparation for IZ*ONE’s return to promotions”.
  187. ^ “Nữ thần tượng 10X rời nhóm nhạc vì lộ ảnh riêng tư”.
  188. ^ “Shitsuren, Arigatou”.
  189. ^ “OUC48 Project”.
  190. ^ “ONE LOVE ASIA”.
  191. ^ “Hanareteitemo”.
  192. ^ “AKB48 tung PV Hanareteitemo với 114 ca sĩ, fan hâm mộ gặp lại 8 thành viên đã tốt nghiệp”.
  193. ^ “Sponichi: COVID-19 Could Be to Blame for AKB48 Missing Out on This Year’s Kōhaku Music Contest”.
  194. ^ “Danh sách Kokaku Uta Gassen gây bất ngờ, AKB48 lần đầu vắng mặt, xuất hiện nhóm nhạc lạ hoắc”.
  195. ^ a b “Arashi takes home the ‘Artist of the Year’ at the ‘JAPAN GOLD DISC AWARD’ for the 7th time”.
  196. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2021 ONLINE オンライン記者会見/Online Press Conference”.
  197. ^ “AKB48 Group Asia Festival 2021 ONLINE”.
  198. ^ “【6/27開催 AKB48 Group Asia Fes】出演メンバー変更のお知らせ”.
  199. ^ “【6/27開催 AKB48 Group Asia Fes】出演メンバー変更のお知らせ”. AKB48公式サイト. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  200. ^ “AKB48峯岸みなみ「私をアイドルにしてくれてありがとう」卒コンに豪華OG集結”.
  201. ^ “チーム8全国ツアー、ついに完走しました!!!”.
  202. ^ “AKB48 Tandoku Concert 2021 〜Suki Naraba, Suki da to Iou~”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  203. ^ “AKB48『9/29発売 AKB48 58thシングル、タイトル&選抜メンバー決定!!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  204. ^ “AKB48 Tandoku Concert 2021”.
  205. ^ “(Teaser) AKB48 get a new horror movie this summer”.
  206. ^ “「AKB48 THE AUDISHOW」 チケット一般2次発売受付のご案内”.
  207. ^ “AKB48 & ANA Cooperate for Ongakusai 2021 – SI-Doitsu English” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2021.
  208. ^ “AKB48岡田奈々・岡部麟・小栗有以・本田仁美、モーニング娘。’21とのコラボに刺激 柏木由紀との本番前やりとり明かす<THE MUSIC DAY> – モデルプレス”. モデルプレス – ライフスタイル・ファッションエンタメニュース (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  209. ^ “7 nữ ca sĩ nhóm AKB48 đều mắc Covid-19”. ZingNews.vn (bằng tiếng Việt). 2 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  210. ^ AKB48. “AKB48メンバーの活動に関するご報告及びイベント出演辞退と公演・コンサート中止のお知らせ”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  211. ^ AKB48. “AKB48メンバーの活動に関するご報告と 8/1開催のイベント出演に関して”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  212. ^ “Team 8 Gyoten Yurina Tests Positive For Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.
  213. ^ “Muto Orin & Suzuki Kurumi Infected with Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  214. ^ “Saito Haruna Tested Positive For Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  215. ^ “Hashimoto Haruna infected with Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  216. ^ “4 More AKB48 Idols Infected with Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.
  217. ^ “Ichikawa Manami infected with Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.
  218. ^ “Kobayashi Ran infected with Covid-19 – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2021.
  219. ^ “AKB48『AKB48メンバーの活動に関するご報告』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2021.
  220. ^ “AKB48『AKB48メンバーの活動に関するご報告』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2021.
  221. ^ “AKB48『AKB48メンバーの活動に関するご報告』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2021.
  222. ^ “AKB48『AKB48 新ゲームアプリ「AKB48 WORLD」の発表とティザー映像公開!』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  223. ^ “AKB48!妄想まんが部字幕放送”.
  224. ^ “Japan Goes Gaga Over a 92-Member Girl Group”.
  225. ^ “As CDs Spin On in Japan, Tower Records Rocks On”. Japan Real Time. 14 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2013.
  226. ^ “ももクロ : “音楽好き”の支持でポストAKBに急浮上? 群雄割拠のアイドルシーン” (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun Digital. 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2012.
  227. ^ “Oricon unveils their Yearly Sales Rankings for 2015”. aramajapan. 21 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2015.
  228. ^ “AKB48、女性グループ歴代1位 シングル総売上1178.7万枚” (bằng tiếng Nhật). Oricon. 6 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2012.
  229. ^ “Oricon weekly (singles)”. The Natsu Style. 15 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2015.
  230. ^ “「恋するフォーチュンクッキー」が、有料音楽配信認定においてミリオンになったので、他のAKB48曲を含めて考察しました”. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2019.
  231. ^ “2014年JOYSOUND 年間カラオケランキング発表”.
  232. ^ “年間ヒットタレント本/写真集 2011年(平成23年) ベスト10”.
  233. ^ “年間CM起用社数、女性上位はAKB独占”.
  234. ^ “AKB48 is officially the world’s biggest group”. 15 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2011.
  235. ^ a b “AKB48’s new Guinness World Record”.
  236. ^ “Japanese girl group AKB48 breezes through D.C. in whirlwind of cuteness”.
  237. ^ “AKB48 members to appear on stamps”.
  238. ^ “10 Years Later, A Defense Of Heavy Rotation by AKB48”.
  239. ^ “The Truth Behind Heavy Rotation”.
  240. ^ “Quảng cáo của nhóm ca sĩ Nhật bị chê thiếu lành mạnh”.
  241. ^ VnExpress. “Sao Nhật bị chỉ trích vì để bé trai sờ ngực”. vnexpress.net (bằng tiếng Việt). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  242. ^ “Bê bối tình ái của nhóm nhạc Nhật”. ZingNews.vn (bằng tiếng Việt). 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  243. ^ “Ca sĩ nữ Nhật Bản bị biến thành biểu tượng tình dục?”. ZingNews.vn (bằng tiếng Việt). 7 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  244. ^ “Cựu thành viên NMB48 bị bắt gặp hẹn hò”. ZingNews.vn (bằng tiếng Việt). 16 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  245. ^ “Sao nữ Nhật cạo trọc đầu vì lộ chuyện riêng tư”.
  246. ^ “Minami Minegishi, Japanese Pop Star, Shaves Head As Penance For Dating (VIDEO)”.
  247. ^ “Ca sĩ Nhật thừa nhận sống chung với bạn trai U50”. ZingNews.vn (bằng tiếng Việt). 2 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  248. ^ “AKB48’s Suzuki Yuka to halt her activities following scandal that she was living with a man in his 40s”. tokyohive. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  249. ^ 「文春オンライン」特集班. “AKB48鈴木優香(20)がジャニーズ風イケメンと池袋ホテルお泊まり《半同棲の40代男性とは別》”. 文春オンライン. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  250. ^ “2 thành viên AKB48 bị fan cuồng tấn công bằng cưa”.
  251. ^ “Hai thành viên AKB48 bị tấn công bằng cưa sắt”.
  252. ^ “Japan’s Lack of Romance: Is It Due to Idol Culture?”.
  253. ^ “Nữ ca sĩ bị tấn công còn phải xin lỗi người hâm mộ”.
  254. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 1 năm 2019). “Ngược đời ngôi sao nhạc pop Nhật Bản xin lỗi vì… tố cáo kẻ tấn công”. BAO DIEN TU VTV (bằng tiếng Việt). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  255. ^ “AKB48、ファン待望の名曲をチャリティーソングとして配信” (bằng tiếng Nhật). Model Press, Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  256. ^ “AKB48’s Post-Quake Support Song Sells 1 Million on 1st Day”. Anime News Network. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2013.
  257. ^ “AKB48’s Post-Quake Support Song Sells 1 Million on 1st Day”.
  258. ^ “AKB48 to distribute another charity song for free”.
  259. ^ “AKB48, sister groups perform in disaster-struck Tohoku”.
  260. ^ “Why Japan’s Music Industry Is Booming… For Now”.
  261. ^ “Wiki 48G”.
  262. ^ “【第9回AKB総選挙】総投票数が過去最多338万票に ハプニング続きも記録更新”. Oricon. 17 tháng 6 năm 2017.
  263. ^ “Janken Tournament”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  264. ^ “Request Hour”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  265. ^ “AKB group draft”.
  266. ^ VnExpress. “AKB48 khoe nét rực rỡ tuổi thanh xuân”. vnexpress.net (bằng tiếng Việt). Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2021.
  267. ^ “Shitao Miu & Oguri Yui to be cover girls of Weekly Shonen Sunday – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2021.
  268. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 to be continued 10年後、少女たちは今の自分に何を思うのだろう?”.
  269. ^ “New People Entertainment Announces DVD Release Of AKB48 Documentary”.
  270. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 Show must go on 少女たちは傷つきながら、夢を見る”.
  271. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 No flower without rain 少女たちは涙の後に何を見る?”.
  272. ^ “DOCUMENTARY of AKB48 The time has come 少女たちは、今、その背中に何を想う?”.
  273. ^ “存在する理由 DOCUMENTARY of AKB48”.
  274. ^ “AKB48 group member live streaming on SHOWROOM”.
  275. ^ “AKB48 Satsujin Jiken”.
  276. ^ “AKB0048 Idol Sci-Fi Anime’s TV Ad Streamed”. Anime News Network. 20 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2012.
  277. ^ “AKB0048 next stage’s 1st Promo Streamed”. Anime News Network. 12 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2015.
  278. ^ “AKB48 Finally Gets An Official Music Game Is, Well, The Name Of The Game”.
  279. ^ “AKB48 team8: 読売新聞オンライン”.
  280. ^ “AKB48派生ユニット「IxR(アイル)」が「SAISON CARD Digital」とコラボレーション!入会特典や先着特典などオリジナル限定アイテム多数!”. プレスリリース・ニュースリリース配信シェアNo.1|PR TIMES. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  281. ^ “AKB横山総監督、たかみな卒業直前で心境告白「実感がわかない」”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  282. ^ “☆☆奇跡のコラボレーション企画!AKB48が兵衛向陽閣のCMをリバイバル☆☆ – ☆ニュースリリース☆ | 兵衛 向陽閣 | 有馬温泉 旅館”. www.hyoe.co.jp. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  283. ^ “AKB48 teams up with Japanese Red Cross for special CM”. tokyohive. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  284. ^ “AKB大島優子らが日本代表を応援する「円陣アンバサダー」に就任”. ゲキサカ (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  285. ^ “バニラエア×AKB48チーム8で奄美群島旅! メンバーのオフ写真も毎週更新”. マイナビニュース (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2021.
  286. ^ “RBFoods TapiocaDrink IxR Special Web Store”. RBTapiocaIxR (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2021.
  287. ^ “AKB48『AKB48 メンズコスメ商品「AKBBeauty For MEN」に関するお知らせ』”. AKB48 Official Blog 〜1830mから~ Powered by Ameba (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2021.
  288. ^ “Majimuri Gakuen Loudness”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2021.
  289. ^ “AKB48 Theater”.
  290. ^ “AKB48 13th Single Senbatsu Sousenkyo ~Kamisama ni Chikatte Gachi desu~”.
  291. ^ “AKB48 17th Single Senbatsu Sousenkyo “Kaasan ni Chikatte, Gachi Desu” ”.
  292. ^ “AKB48 22nd Single Senbatsu Sousenkyo”.
  293. ^ “AKB48 27th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  294. ^ “AKB48 32nd Single Senbatsu Sousenkyo”.
  295. ^ “AKB48 37th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  296. ^ “AKB48 41st Single Senbatsu Sousenkyo”.
  297. ^ “AKB48 45th Single Senbatsu Sousenkyo “Bokutachi wa Dare ni Tsuiteikeba ii” ”.
  298. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2011”.
  299. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2012”.
  300. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2013”.
  301. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2014”.
  302. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2015”.
  303. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2016”.
  304. ^ “AKB48 Kouhaku Utagassen 2017”.
  305. ^ “AKB48 19th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  306. ^ “AKB48 24th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  307. ^ “AKB48 29th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  308. ^ “AKB48 34th Single Senbatsu Janken Taikai | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  309. ^ “AKB48 Group Janken Taikai 2014 | AKB48 Wiki | Fandom”. akb48.fandom.com. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  310. ^ “2015 Janken Tournament – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  311. ^ “AKB48グループじゃんけん大会2015”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  312. ^ “AKB48公式サイト | AKB48グループじゃんけん大会2016”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  313. ^ “AKB48公式サイト | AKB48グループ ユニットじゃんけん大会2017”. AKB48公式サイト | AKB48グループ ユニットじゃんけん大会2017 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  314. ^ “AKB48 Group Unit Janken Tournament 2018 – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  315. ^ “AKB48 Group First Singing Contest – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  316. ^ “AKB48 Group Second Singing Contest – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  317. ^ “AKB48 Group Third Singing Contest – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  318. ^ “AKB48 Announce The 4th AKB48 Group Singing Contest – 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2021.
  319. ^ “AKB48 Natsu Matsuri 2014 – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  320. ^ “AmebaPigg Unit Battle – Wiki48”. stage48.net. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2021.
  321. ^ “MAMA HISTORY – WINNERS 2009: The complete list | Mwave”. www.mwave.me (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  322. ^ “ベストヒット歌謡祭2009受賞者&曲目一覧”. スポチャンネル +オリコンMUSIC (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  323. ^ “AKB48がグランプリを受賞! – 「第17回ボウリング・マスメディア大賞」”. マイナビニュース (bằng tiếng Nhật). 15 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  324. ^ “美輪も絶賛!AKB48「アイドル文化広げたい」 – スポニチ Sponichi Annex 芸能”. スポニチ Sponichi Annex (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  325. ^ Rob Schwartz (7 tháng 2 năm 2011). “Chaka Khan, Debbie Gibson Make Cameos at Billboard Japan Awards”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
  326. ^ “2010年トレンド大賞は「3Dビエラ」~DIME発表|ライフ関連ニュース|オリコン顧客満足度ランキング”. oricon (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  327. ^ “Entertainment Project Design [AKB48]”. Good Design Award. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  328. ^ “Japan Gold Disc Award 2011”.
  329. ^ “たけしが人気コンビにお墨付き! ピースは「最先端」 ブラマヨは「保険」”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  330. ^ “麻里子さま、前田敦子と大島優子を馬に例えると…?”. cinemacafe.net (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  331. ^ 株式会社インプレス (1 tháng 3 năm 2011). “第16回AMDアワード優秀賞に、Ustream、Android、もしドラ、AKB48など9作品”. INTERNET Watch (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  332. ^ “日本有線大賞:大賞候補にAKB48 新人賞にマルモリコンビを選出 – MANTANWEB(まんたんウェブ)”. archive.is. 10 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  333. ^ “AKB48, Avril Lavigne Win Big at Billboard Japan Music Awards”. Billboard. 6 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2012.
  334. ^ “ドラマソング賞 受賞結果 1位:フライングゲット、AKB48 | 第70回 – ザテレビジョンドラマアカデミー賞”. ザテレビジョン (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  335. ^ “AKB48がアーティスト・オブ・ザ・イヤー含む4冠を2年連続で達成│Daily News│Billboard JAPAN” (bằng tiếng Nhật). Billboard Japan. 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2012.
  336. ^ “AKB48, Carly Rae Jepsen Win Big at Billboard Japan Music Awards”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  337. ^ AKB48がレコ大連覇!”センター”まゆゆ号泣. SANSPO.COM(サンスポ) (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 12 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2014.
  338. ^ “AKB48 / Awarded “Asia’s Most Popular Group” in Beijing”. SYNC MUSIC JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  339. ^ “2012年『日本有線大賞』は氷川きよし 2年ぶり史上最多7回目の大賞”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  340. ^ “第26回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  341. ^ Jeff Benjamin (9 tháng 1 năm 2014). “AKB48, Morning Musume Win Big at Billboard Japan Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
  342. ^ Billboard Staff (20 tháng 12 năm 2012). “AKB48, Carly Rae Jepsen Win Big at Billboard Japan Music Awards”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
  343. ^ “第27回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  344. ^ Inc, Natasha. “「日本有線大賞」候補にAKB48、きゃりー、JUJU、西野ら”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2021.
  345. ^ “Nominees & winners for the ’56th Japan Record Awards’ announced”. tokyohive. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2021.
  346. ^ “第28回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  347. ^ “「第18回SPACE SHOWER MUSIC VIDEO AWARDS」にて特別賞ほか受賞!!”. AOI Pro. Inc. (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  348. ^ “第29回日本ゴールドディスク大賞”. 日本ゴールドディスク大賞 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  349. ^ “AKB48 Tops Billboard Japan’s 2016 Artist Ranking: See the List”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2019.
  350. ^ “Arashi takes ‘Artist of the Year’ at ‘THE JAPAN GOLD DISC AWARD’ again”.
  351. ^ “「第11回大正琴音楽大賞」授与式を行いました”. 琴伝流からのお知らせ | 琴伝流大正琴 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  352. ^ “ドラマソング賞 受賞結果 1位:365日の紙飛行機、AKB48 | 第88回 – ザテレビジョンドラマアカデミー賞”. ザテレビジョン (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  353. ^ “Kapanlagi.com: Musik – Selamat! Ini Daftar Lengkap Pemenang Dahsyatnya Awards 2016”. KapanLagi.com (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2021.
  354. ^ “12月21日,又一波成员将抵达北京! | 自由微信 | FreeWeChat”. freewechat.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  355. ^ “31st Japan Gold Disc Awards – generasia”. www.generasia.com. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  356. ^ “AKB48『365日の紙飛行機』が大正琴音楽大賞 “恋チュン”とは違う世界でスタンダードに (2017年2月9日)”. エキサイトニュース (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  357. ^ Ryusenkai (15 tháng 11 năm 2017). “Winners and Nominees for the 59th Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  358. ^ “The Winners of The Japan Gold Disc Award 2018 Announced”.
  359. ^ “60th Japan Record Awards winners and nominees announced”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  360. ^ Ryusenkai (15 tháng 11 năm 2019). “Winners and Nominees for the 61st Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  361. ^ “Namie Amuro, BTS, AKB48, & more win at 33rd “Japan Gold Disc Award” ”.
  362. ^ “34th Japan Gold Disc Awards”.
  363. ^ Ryusenkai (19 tháng 11 năm 2020). “Winners and Nominees for the 62nd Japan Record Awards Announced”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2021.
  364. ^ “Largest pop group”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  365. ^ “Most pop singers featured in a videogame”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2021.
  366. ^ “Most TV commercials for the same product (24 hrs) – national/Free-to-air”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2021.
  367. ^ “AKB48 becomes best-selling singles female artist ever in Japan”. Asahi Shimbun. ngày 22 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2014.
  368. ^ “AKB48’s latest single is the best selling single for a female group”. tokyohive. 7 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  369. ^ “AKB48 売上 – さよならクロール”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2014.
  370. ^ “AKB48’s latest single ‘Heart Ereki’ sells over a million copies in one day”. tokyohive. ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  371. ^ “AKB48 score their 16th million-selling single”. tokyohive. ngày 16 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2014.
  372. ^ “【ビルボード】AKB48『願いごとの持ち腐れ』が250万枚突破、シングル・セールス・チャート首位獲得”. Billboard JAPAN. 5 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2017.
  373. ^ “King Records Official Site Give Me Five! profile” (bằng tiếng Nhật). King Records. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2012. Truy cập 7 tháng 5 năm 2012.
  374. ^ “SKE松井珠理奈、NMB渡辺美優紀がAKB48に期間限定加入”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập 25 tháng 3 năm 2012.
  375. ^ “SKE松井珠理奈、NMB渡辺美優紀がAKB48に期間限定加入”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. ngày 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập 25 tháng 3 năm 2012.
  376. ^ “SKE48 profile”. Natalie (bằng tiếng Nhật). Natasha, Inc. Truy cập 7 tháng 5 năm 2012.
  377. ^ “インドネシアにもAKB妹分「JKT48」”.
  378. ^ “SNH48メンバー26人決まりました”.
  379. ^ “AKB48渡边麻友:30岁想挑战女侦探角色”. 新浪娱乐. 16 tháng 12 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2018.
  380. ^ “AKB48 lập nhóm đàn em mới ở Thượng Hải sau khi cắt đứt với SNH48”.
  381. ^ a b “” AKB48公式ライバル”乃木坂46結成 一般公募でメンバー決定” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập 22 tháng 8 năm 2011.
  382. ^ “NGT48、劇場オープン3ヶ月延期 来年1月10日に” (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. 16 tháng 9 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2016.
  383. ^ AKB48、来夏「STU48」誕生 瀬戸内7県舞台の「船上劇場」 (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. 10 tháng 10 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2016.
  384. ^ “New AKB48 sister groups to be formed in Manila, Bangkok and Taipei”. japantoday.com. ngày 28 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2017.
  385. ^ “チェンマイ拠点の新グループ「CGM48」結成を発表 BNK48に次いでタイに2つ目”.
  386. ^ “AKB48 Announces New International Sister Group MUM48, Based in India”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2019.
  387. ^ Japan, Arama! (19 tháng 6 năm 2019). “AKB48 announce Indian sister groups DEL48 & MUB48”. ARAMA! JAPAN. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2019.
  388. ^ “Ra mắt nhóm nhạc thần tượng nữ SGO48”.
  389. ^ “Nhóm nhạc 29 thành viên ở Việt Nam hoạt động ra sao?”. Báo Thanh Niên (bằng tiếng Việt). 18 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

AKB48 – Wikipedia tiếng ViệtWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về AKB48.
  • Trang web chính thức (tiếng Nhật)
  • AKB48 trên King Records (tiếng Nhật)
  • Blog chính thức (tiếng Nhật)
  • Trang web AKB48 Team 8(tiếng Nhật)
  • Cửa hàng chính thức (tiếng Nhật)
  • AKB48 trên Apple Music
  • AKB48 trên Facebook
  • AKB48 trên Instagram
  • AKB48 trên Line
  • AKB48 trên Spotify
  • AKB48 trên TikTok
  • AKB48 trên Twitter
  • AKB48 trên Twitter (thành viên)
  • Kênh AKB48 trên YouTube

[external_footer]

Xổ số miền Bắc